Nhiều tác giả
(Vi tính: Tâm Duyên)
Lời giới thiệu
(Nhân kỳ in lại năm 1994 – PL. 2538)
Thái tử Tất Đạt Đa đản sinh năm 623 trước Tây lịch tại vườn Lâm Tỳ Ni, thành Ca Tỳ La Vệ, xứ Ấn Độ. Lớn lên giác ngộ cuộc đời vốn vô thường, khổ não, vô ngã, bất tịnh… Thái tử vượt hoàng thành vào rừng sâu, xuất gia tầm đạo, tu tập chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thành Phật, được môn nhơn đệ tử hằng niệm danh hiệu: “Nam-mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật”
Sau 80 năm hiện thân, tu khổ hạnh, hành đạo, hoằng pháp độ sanh, Ngài nhập diệt. Từ đó giáo pháp của Ngài dần dần toả rộng khắp năm châu.
Đạo Phật du nhập vào Việt Nam rất sớm, từ những thế kỷ đầu Tây lịch, và thấm dần, thấm dần, bàng bạc đến nay gần cuối thế kỷ hai mươi. Phật giáo Đại thừa phát triển ngày càng bén rễ sâu đậm trong lòng quê hương dân tộc.
Đến giữa thập niên 1940–1950, Tổ sư Minh Đăng Quang khai sơn hình ảnh nhà Du Tăng khất sĩ tại miền Nam Việt Nam, được xem như một hệ phái Phật giáo biệt truyền, đặc thù, chỉ có ở miền Nam Việt Nam: Hệ phái Khất Sĩ. Nhưng điều kém duyên cho hàng môn đồ là không đầy mười năm sau, Tổ sư vắng bóng (1944 - 1954).
Từ năm 1955 đến năm 1975, chư Tăng Ni khất sĩ nối tiếp gương hạnh Tổ Thầy, hoằng dương chánh pháp khắp vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, lên miền Đông Nam Bộ rồi đi suốt miền Trung Duyên Hải và Cao Nguyên, với hạnh nguyện:
Một bát cơm ngàn nhà (Nhất biều thiên gia phạn
Thân đi muôn dặm xa Cô thân vạn lý du
Muốn thoát vòng sanh tử Dục cùng sinh tử lộ
Xin độ tháng ngày qua Khất hóa độ xuân thu)
Và từ đó:
Một cành mà nở trăm hoa
Bóng y bát đẹp quê ta tự rày
Chân truyền Khất Sĩ là đây
Bóng xưa với lại hình này dặm không!
Buổi đầu, một ngôi tịnh xá rồi mười ngôi, trăm ngôi. Chư Tăng Ni xuất gia cũng vậy - một vị, mười vị, rồi trăm vị, ngàn vị. Tín đồ cư sĩ tại gia thì lại càng đông hơn – hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn, hàng muôn, hàng triệu v.v…
Trong giới Tăng Ni, có người xuất gia tu học, hành đạo rồi đi trọn cuộc hành trình cho đến ngày công viên quả mãn, đạo nghiệp rạng ngời mãi mãi. Nhưng bên cạnh cũng có rất nhiều vị rơi vào trường hợp “bán đồ nhi phế”. Dù ở hoàn cảnh nào, các vị cũng đều khả dĩ ít nhiều có một dấu ấn lưu lại rất thân tình đạo vị trong lòng Tăng tín đồ thân thương. Đó là những bài kệ pháp được các vị viết nên từ những cảm khái hưng phấn trên bước đường hành đạo. Họ sáng tác nhiều thể loại: Lục bát, Song thất lục bát, Thất ngôn tứ tuyệt, hay Thất ngôn bát cú hoặc Bát ngôn trường thiên v.v… Điểm chung nhất mà các tác giả gặp nhau là ít khi họ ký tên hay bút hiệu của mình ở cuối bài thơ mà thường hay đề “Một vị sư Khất Sĩ”.
“Chim bay không lưu dấu”, đó cũng là dấu ấn chung của các vị đạo sư, thiền sư và hành giả học nhơn thời xưa cũng như thời nay trong giáo pháp Đức Phật.
Sưu tầm lại những tấm gương sáng, những lời khuyến thiện hay từ những tấm lòng, những tâm đạo nhiệt thành trong sáng làm nên nhiều bài thơ kệ đạo lý của các thế hệ trên trước đi qua lưu dấu lại cho các thế hệ đi sau quả nhiên là điều chẳng những nên làm mà còn phải cố gắng làm liên tục, càng nhiều càng tốt.
Trong quá trình sưu tập, chọn lọc lại, chúng tôi xin sám hối cùng chư vị tác giả là có mạn phép giảm bớt một số bài không còn phù hợp tính “cơ lý” trước dòng thời gian. Mong rằng chư vị tác giả và Tăng Ni Phật tử độc giả rộng tình lượng thứ cho.
Thiết tưởng tập kệ pháp khuyến tu khuyến thiện này sẽ ít nhiều là món ăn tinh thần Pháp bảo đầy đạo vị an tịnh đối với Tăng Ni tín đồ Phật tử trên đường tu tập và hành đạo.
Cầu nguyện sự hỷ lạc tinh tấn đến với mọi tâm hồn những người con Phật hữu duyên.
Cẩn bút
Sa-môn GIÁC TOÀN
CHÂN NGÔN
Tự cao, Ngã mạn, Ỷ lại, Tham gian và Ái nhiễm
là liều thuốc độc đưa người đến chỗ chết.
Nóng nảy, Đua tranh, Thù hiềm, Ganh tị, Độc ác
là nấc thang dắt người xuống hố địa ngục.
Xu hướng, Dị đoan, Tà kiến, Ái dục và Si mê
là nguồn gốc của sự luân hồi sanh tử.
Từ bi, Hỷ xả, Bác ái, Khoan dung…
là giọt mưa cam lồ nhuần gội.
Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục và Tinh tấn…
là diệu dược cứu nguy tâm hồn sa đọa.
Thiền định, Trí huệ, Giải thoát và Chơn như…
là nấc thang lên đến Niết-bàn tột đỉnh.
Mỗi người có sẵn đèn lòng,
Tự mình soi lấy, chớ trông tầm ngoài.
Cũng đừng ỷ lại vào ai,
Phật, Tiên, Hiền, Thánh, chính ngay tự mình.
PS. Giác Nhiên
PHẢI CHĂNG?
Tiếng lòng giục thúc thương nhân loại
Mượn ngòi bút mực dệt thành thơ?
Lưu kỷ lời vàng trong vạn kỷ
Thế nhân khó gặp kẻ siêu nhân?
Thuốc đắng khó dùng, mau hết bịnh
Mực tàu đau gỗ, lợi nhân sinh?
Sự thật trở về theo lẽ thật
Lời ngay, nói phải thật cho ngay?
Giải mở nỗi lòng, phiền não hết,
Phân rành lý đạo, chỉ tu chơn?
PS. Giác Nhiên
Tiếng chuông giục thức đêm trường mộng!
“TỨ KỆ TỈNH TÂM” giác ngộ đời…
***
Xin giới thiệu cùng quý chư độc giả!
Tựa quyển này là “TỨ KỆ TỈNH TÂM”
Tôi nhiều công, đã chọn lọc sưu tầm
Trong bốn quyển nay kết thành lại một.
Quyển thứ nhất tên tựa là “KỆ PHÁP”
Đã ra đời trên mười mấy năm qua
Quyển thứ nhì, “PHÁP BẢO KỆ” in ra
Đều tái bản được nhiều lần phổ biến.
Và kế tiếp, quyển thứ ba xuất hiện
Tên tựa là quyển “BẢO KỆ TÂM KINH”
Mấy quyển này tôi cố gắng tận tình
Chọn rút lấy nhiều thi văn tuyệt tác.
Quyển thứ tư nhiều vị hương bát ngát
Tên tựa đề là “PHÁP KỆ PHÁ MÊ”
Nhiều thi thơ hay khỏi có chỗ chê
THIỆN QUANG soạn của nhiều sư Khất Sĩ.
Bốn quyển trên, muốn ban hành Pháp thí
Tôi ra công soạn rút những bài hay,
Cả thi thơ có gần bốn trăm bài
Đầy hương vị, thơm tho mùi Đạo lý!
Quý tác giả, tôi không rành địa chỉ
Xin vui lòng hoan hỷ thứ dung cho,
Còn riêng tôi cũng gắng sức chung lo
Cố sáng tác những bài thi bất hủ.
Sức hiệp sức để kết nên thành tựu
Làm phương châm, diệu dược cứu trần gian,
Cũng gọi là một ngọn đuốc từ quang
Dìu khách tục khỏi lầm đường lạc lối.
Thấy sanh chúng muôn ngàn điều tội lỗi
Bị miếng mồi vật chất mãi bao vây
Bị danh cương, bị lợi tỏa hàng ngày
Bị tài, sắc, bị bạc tiền bêu nhử…
Màn vô minh đã phủ che án ngữ
Trong mịt mờ thấy càng thảm càng thương!
Mảng say mê trong giấc mộng canh trường
Ôi! Đau khổ! Thế nhân, ôi mặc kệ!
Chuông tỉnh giác, sớm hồi tâm kẻo trễ
Hỡi người ơi, chìm đắm mãi làm chi?
Kìa bao người đang đổ lệ lâm ly
Đành khóc hận cho kiếp đời đau khổ…
Cơ tận diệt khiến bão bùng giông tố
Tiếng than van, rên rỉ cả ngày đêm!
Tiếng kêu oan, tiếng oán hận càng thêm
Lửa nung cháy, còn chế dầu chi nữa?
Mau dập tắt, mau dùng phương cứu chữa
Là quay đầu hướng thiện trở về tu!
Chỉ có tu mới vẹt phá mây mù
Hầu xây dựng ngôi tòa chân hạnh phúc.
Xưa Đức Phật quyết tìm đường thoát tục
Hy sinh đời để cứu vớt chúng sanh,
Lòng từ bi không nỡ hưởng vui đành
Thấy sanh chúng đang hụp trồi bể khổ.
Ngài phát nguyện đi khắp nơi hóa độ
Chèo thuyền từ cứu vớt kẻ si mê
Pháp viên âm, Ngài mưa xối tràn trề
Cả muôn loại được thấm nhuần đạo lý.
Nay nhắc lại, trên hăm lăm thế kỷ
Mà gương Ngài chiếu sáng khắp năm châu,
Ân đức Ngài thật lớn rộng thâm sâu,
Con nối chí, quyết tìm phương độ chúng!
Vùng đứng dậy, phất ngọn cờ oai dũng
Mở tâm hồn càng rộng lớn thênh thang
Hươi bút lên, quét sạch lũ tham tàn
Dùng gươm huệ, diệt tiêu phiền não chướng!
Quyết tiến tới cho đạt thành chí hướng
Quyết đắp xây một thế hệ ai lân
Quyết phá tan bao khám ngục trong trần
Quyết dựng lập một ngôi tòa đại giác!
Quyển “TỨ KỆ TỈNH TÂM” hàm bao quát
Là pháp mầu, là diệu dược linh đơn
Cứu vớt người về đến chỗ toàn chơn
Và toàn thiện, toàn năng hay toàn mỹ…
Cảnh Bồng Lai tịnh xá Ngọc Hương – Vũng Tàu
Mùa Hạ năm Bính Ngọ – PL. 2510
Pháp sư GIÁC NHIÊN
TÁN DƯƠNG QUÝ NGÀI TÁC GIẢ
Thi văn tuyệt tác ở nơi đây
Khen ngợi quý ngài viết rất hay!
Đánh trống Đại hùng kêu khách tục,
Giộng chuông Bát-nhã chỉ về Tây.
Lý cao siêu xuất, hương ngào ngạt
Lẽ chánh tuyệt vời, vị ngọt ngay.
Ngọc ngữ kim ngôn lưu vạn kỹ
Tán dương thi sĩ bậc kỳ tài!
TÁN DƯƠNG CÔNG ĐỨC PHÁP THÍ
Phật dạy phước điền muốn rải ban
Chỉ duy Pháp thí đứng đầu hàng:
In kinh ấn tống bòn duyên phước,
Thuyết pháp nhiệm mầu được rưới chan,
Dịch các kinh văn ra phổ biến,
Viết kinh, thi, kệ chỉ ngay đàng.
Bốn điều công đức không chi sánh
Pháp thí bao trùm khắp thế gian.
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC CHUNG
Chúng con dâng hết tấm lòng mình
Nguyện Phật ba đời độ chứng minh:
Ân rộng quý ngài công sáng tác,
Nghĩa sâu tín chủ góp tiền in,
Người xem trau sửa rèn tâm tánh,
Kẻ thí hài lòng trí huệ sinh…
Phước đức nguyện chung hồi hướng chúng
Âm siêu, dương thới hưởng thanh bình.
Nay xuống bút vài hàng ngụ ý
Tả đôi lời hữu chí cánh thành,
Sống trong bầu vũ trụ đã đành
Sao nhắm mắt đưa theo chiều gió?
Đồ vật chất tham giành cho có
Bã lợi danh là gió làm duyên
Cuộc hồng trần lắm nỗi đảo điên
Cảnh đời ví như xiềng xích trói.
Có thân khổ làm sao tránh khỏi
Mau nhìn đường tìm tỏi bước ra
Vật trên đời như mật dính hoa
Ghẹo bướm nọ, kêu ong nhử kiến.
Kẻ giác ngộ chớ vì tham luyến
Thấy vật đời là miếng mồi trần
Mến tham thì khổ lụy tấm thân
Nên mau dứt, lìa trần giải thoát.
Thấy thời thế đắng, cay, chua, chát…
Cứ vì nhau xô xát mãi hoài
Thương chúng sanh vũ trụ muôn loài
Cam khốn khổ biết ngày nào hết?
Còn khổ bịnh, khổ già, khổ chết
Nỗi vô thường là vết đầu tiên
Trong chúng sanh tất cả các miền
Sanh với diệt xoay chuyền liên kết.
Nếu có sống ắt là có chết!
Sự nghiệp tan như kết vầng mây
Sống con người rày đó mai đây
Như đèn nọ treo ngay trước gió.
Nhìn thấy đó bỗng liền mất đó
Nó vô thường huyễn hoặc lắm thay!
Phận con người ở chốn trần ai
Thân cũng tạm, vật nay cũng tạm!
Chớ tham đắm mà tâm mờ ám
Bụi hồng trần khuyến cám dụ người
Làm cho ta lỡ khóc lỡ cười…
Mà có bấy nhiêu người hiểu rõ?
Nhớ thuở trước anh hùng Hạng Võ
Lược thao tài có mấy ai hơn…
Rốt cuộc rồi đến lúc lâm cơn
Cắt đầu nạp giao cho Hàn Tín.
Cũng lắm kẻ bao người dự thính
Thì về sau cũng dính tay không
Giống dã tràng xe cát biển Đông
Rủi lượn sóng, uổng công khó nhọc.
Thương kẻ dốt mà không chịu học
Trốn bỏ trường đi chọc phá đời
Theo văn minh nhiễm thói chơi bời
Nên khốn khổ cho thời lầm lạc.
Cũng chẳng khác con bò hông mạc
Thấy bóng đèn cứ tạt nhảy vô
Thảm thương thay! Chết héo, chết khô
Mà chẳng rõ cơ đồ tại nó…
Mây cuồn cuộn đưa theo chiều gió
Sau lâu ngày cũng có rã tan,
Cảnh hồng trần là cuộc mơ màng
Thay đổi mãi hết tan đến hiệp.
Sự mộng ảo diễn ra liên tiếp!
Cái vô thường kiếp kiếp chóng mau
Người chẳng lo đường đạo bước vào
Tu giải thoát ngày sau vĩnh viễn.
Chớ tham đắm cuộc đời mộng huyễn
Nào thân bằng, quyến luyến vợ con
Cũng đền đài, kiệu phụng, lầu son
Và cha mẹ, bà con, bạn hữu…
Vì tham tiếc của tiền đầy tủ
Vật chất nhiều quyến rũ kéo lôi
Cả tiếng kêu người trí kia ôi!
Mau dứt nó cho rồi rảnh khổ.
Hồi thuở trước Thích Ca Phật Tổ
Còn lìa trần kiếm chỗ tu thân
Bỏ lầu đài, cung điện, mỹ nhân
Cùng vợ đẹp, con thơ kia đó.
Ngài còn nói cạn lời phân tỏ
Đường sông mê thật khó lướt qua
Nhưng Ngài nghĩ đó là biển khổ
Nên mau mau kiếm chỗ thoát thân.
Ngài nói rằng: Cảnh thế bụi trần
Sự giả tạm do nhân duyên hiệp
Thấy cảnh khổ diễn ra liên tiếp
Sống con người trong kiếp mấy hồi!
Ngài nhìn tường thấy cảnh hỡi ôi
Thương sanh chúng đắp bôi trần tục
Chốn hắc ám là nơi địa ngục
Biết bao người tự rúc nhào vô…
Giành tước quyền, cấu xé lấn xô…
Tạo nghệ nghiệp, cơ đồ, dinh thự
Mạnh hiếp yếu, kẻ hiền thua dữ
Ở trên đời chẳng chữ “công bình”.
Tả làm sao hết khổ cho minh
Ngài thấy vậy, động lòng thương xót
Cõi trần thế mấy ai thoát lọt
Nỗi tử, sanh khổ não bịnh, già…
Ngài liền xin với lịnh vua cha
Cho con được xuất gia giải thoát
Nghe lời xin lịnh vua ngơ ngác
Rằng: “Cha già chỉ có một con”
Nào đền đài, kiệu phụng, lầu son
Tước đế vị, sau con nối nghiệp
Và mỹ nữ, cung phi, thê thiếp
Các lâu đài hạp tiết bốn mùa…
Xuân sang, Đông Hạ mãn, Thu qua
Cho con ở, đờn ca giải trí…
Con còn muốn vật gì nhất quý
Cha hết lòng cũng phỉ phê cho.
Vợ con thì có đủ người phò
Con nên nghĩ xét so cho rõ?”
Ngài liền nói cạn lời phân tỏ:
“Con muốn vầy: Trẻ mãi chớ già!
Cùng ốm đau, chết chẳng lân la
Được giải thoát lìa xa cõi tục
Chẳng trìu mến cuộc đời nhục dục
Tránh hai đường sanh tử luân hồi”…
Lịnh vua cha nghe nói hỡi ôi
“Xin điều ấy làm sao phê được?
Cha nay cũng còn trong ngũ trược
Thì làm sao con được thanh bai?
Cõi hồng trần sanh tử xưa nay
Mà xin phú có ai phê được?
Vua sợ nỗi cho Ngài thoát vượt
Nên canh phòng nghiêm ngặt hơn xưa
Gặp thời may sắp có chuyển mưa
Trời u ám, mây mờ đen hắc.
Ngài lên cỡi mã long Kiền Trắc
Thừa đêm khuya lén trốn vào rừng
Lìa cha già, vợ đẹp, con cưng
Tìm đạo lý cứu cho trần thế.
Thấy tứ khổ chúng sanh rất tệ
Ngài phát nguyền để tế độ đời
Sống trong bầu vũ trụ đất trời
Nơi tất cả ai ai cũng có…
SANH: Trong bụng mẹ lọt ra khóc ó
Tiếng “Khổ a” khó khó cảnh đời!
Nhờ mọi người tất cả nơi nơi
Mạng sống chết giao cho người giữ
LÃO: Ngày một lớn tập lần ngôn ngữ…
Thì lần lần sắp tử đến già
Khổ thứ này nào có gì qua
Mắt mờ mịt dòm xa chẳng thấy.
Tai thì điếc, nhờ nương cây gậy
Gối run lia như bẫy mắc giò
Tóc bạc đầu, răng rụng, ốm o
Da bọc lấy xương cho đỡ tạm.
BỊNH: Bịnh đưa đến càng thêm rất thảm
Vì uống ăn chẳng đặng điều hòa
Bịnh căn này thân ấy phát ra
Thì đau khổ rên la nhức nhối.
Cơn bịnh hoạn không phương tránh nổi
Còn mang thêm tật nọ tật kia
Sự thúi hôi ai cũng xa lìa
Thân trằn trọc lăn qua lội lại.
Bịnh đủ chứng: cùi, phong, tê, bại
Bịnh suyễn ho, bịnh tại phổi gan
Bịnh nhức đầu, sổ mũi, trái, ban
Chẳng kể xiết muôn ngàn chứng bịnh…
TỬ: Rồi lần lượt thân này tịch tịnh
Kể từ đây đến lúc chia lìa
Đường tử sanh hai ngả phân chia
Kẻ ở lại, người về âm cảnh!
Xa cách biệt ngàn năm hiu quạnh
Cảnh giả trần hết thạnh rồi suy
Sống con người gẫm có ích gì?
Mà say đắm làm chi cho khổ!
Nên thuở trước Đức Ngài Phật Tổ
Có dạy truyền di giáo lời này:
Người chớ đeo vật chất mê say
Mà đi lạc đường ngay nẻo chánh.
Phải noi dấu theo đường Phật Thánh
Dứt nghiệp duyên xa lánh hồng trần
Tìm đạo vàng nương dựa tu thân
Đặng tìm xét kiếm phần ngọc báu.
Chớ cung điện, lâu đài, áo mão
Nó vốn là mộng ảo vô thường
Lại gây điều nghiệp báo oan ương!
Vì Đức Phật lòng thương bác ái,
Nên Ngài mới đem lời huấn dạy
Kẻo người đời cứ mãi trau dồi
Phải chìm đắm luân hồi biển nghiệp.
Nay trở gót mau tu cho kịp
Đồng chung cùng hội hiệp đi lên
Con đường tu Phật - Đạo đứng trên
Ta cần bước qua nền mới vững.
Niết-bàn cảnh thanh nhàn chứa đựng
Cho người đời hết nghiệp bước qua
Cảnh trường tồn, bất diệt có ta
Thì dứt hẳn Ta-bà kham khổ!
Thì quyết hẳn ra ngoài đau khổ!...
Đánh trống giộng chuông thức tỉnh đời
Cuộc trần giả tạm vốn trò chơi
Đeo theo chi mãi điều oan nghiệp
Đây lắm lòng thương tỏ hết lời.
KHUYÊN SỚM GIÁC NGỘ
Tánh linh người vật cũng đồng
Tuy không biết nói mà lòng biết nghe
***
Khuyên người chớ giết sanh linh
Đem ra cúng tế cầu xin thần quyền
Lòng nhơn phải ở cho hiền
Ấy là “bất sát” phải kiêng luật trời
Thiện lành nắm giữ chớ rời
Người cùng muôn vật đều thời sống chung
Ta nên phải nghĩ cho cùng
Lẽ nào đem cái dữ hung áp đàn
Giết loài sinh vật muôn ngàn
Mà đem cúng tế cầu an cho mình
Thật là trái lẽ công bình
Phật Trời nào có vị tình ta đâu
Trồng dâu thì sẽ hái dâu
Gieo “nhơn” hái “quả” chớ đâu sai dời
Muôn loài vạn vật trên đời
Cũng đồng mạng sống cũng thời mang thân
Trên đời có một cây cân
Ai ai cũng sống có phần như nhau
Người cùng muôn vật khác nào
Giết thân chúng nó đớn đau như mình
Mở lòng một chút niệm tình
Tha gium chúng nó thân hình nhỏ nhoi
Không đành thấy giết mà coi
Huống chi ăn uống giống nòi thuở xưa
Phải nên cố tránh và ngừa
Hồng hoang thượng cổ từ xưa đến giờ
Lẽ nào lấy mạnh hiếp khờ
Trước kia mình cũng ư ơ đó mà
Dầu cho cha mẹ, ông bà
Trăm năm mãn số cũng là chớ sai
Lòng lành là cúng cơm chay
Chớ nên sát hại các loài thú kia
Dối rằng nói cúng: rồi chia…
Mà đành phú tội đổ về mẹ cha!
Mình ăn sướng miệng âu ca
Vong linh cha mẹ phải sa đoạ đày
Đó là bất hiếu lắm thay!
Đành để kẻ chết đắng cay khổ sầu:
Chết rồi ăn uống được đâu?
Phải nên suy xét cho sâu mới là…
Đừng theo tả đạo ngoại tà
Sát sanh hại vật cúng mà tổ tiên
Ấy là tạo sợi xích xiềng
Cột cầm cha mẹ dưới miền Diêm la
Hành hà đau đớn thiết tha
Xin người thương xót với cha mẹ cùng
Nỡ nào bất nghĩa, hiếu, trung…
Tương ưng oan báo chẳng dung cho người
Cây lành mọc nhánh chồi tươi
Sanh linh “bất sát” mới người thiệt “nhơn”
Cuộc đời công lý tuần hoàn
“Sát sanh thường mạng” chẳng hơn kém gì
Nên thường niệm chữ từ bi
Thương loài sanh vật như thì thương ta
Noi truyền theo dấu Thích Ca
Ăn chay đạm bạc cũng qua tháng ngày
Chớ nên tạo nghiệp đắng cay
Ngon chi lưỡi miệng muôn ngày khổ đau
Sống cần tu học dồi trau
Thì là dưa muối tương rau tạm dùng
Thân này đừng có quén vun
Nó là tứ đại hiệp cùng với nhau
Rồi đây có lẽ lâu mau
Thì cũng rã đoạn chớ nào bền lâu
Đừng gây nghiệp báo thâm sâu
Muôn đời ngàn kiếp cất đầu chẳng lên!
Nhơn lành đạo đức làm trên
Theo con đường ấy vững bền về sau
Rán mà sửa đổi dồi trau
Ăn chay trọn thiện thác vào cảnh Tiên
Luân hồi cùng mối oan khiên
Chẳng còn đeo níu trói xiềng được ta
Khuyên cùng tất cả gần xa
Mở lòng lương thiện rán mà ăn chay
Giữ lòng chơn chánh thảo ngay
Thì là Phật cảnh liên đài chẳng xa
Biết phân nẻo chánh đường tà
Chớ gây nghiệp báo oan gia làm gì
Muốn tránh nạn khổ sầu bi
Một lòng nắm giữ kiên trì giới nghiêm
Đèn cháy do lửa, dầu, tim…
Người lấy chơn chánh thanh liêm sửa mình
Soi đèn trí tuệ quang minh
Cho người thấy rõ giữ gìn hành theo.
MUỐN SANH ĐỪNG SÁT
Cúng kiến khuyên người chớ sát sanh
Sao mà giết hại vật cho đành
Thú kia cũng muốn cùng ta sống
Bao nỡ đoạn tình hỡi chị anh!
Chay lạt chưởng lòng thương chủng loại
Sạch trong chứa đức giữ tâm lành
Thương đời, Phật để lời trau dạy
Muốn thoát luân hồi chớ sát sanh.
KHUYÊN CÚNG CHAY
Xưa kia cúng mặn lỗi lầm thay!
Nay giác ngộ rồi đổi cúng chay
Dưa muối tương rau tuy đạm bạc
Cơm canh bánh trái thảo lòng ngay
Trước gìn mạng sống muôn loài vật
Sau giữ lòng nhơn nghiệp khỏi vay
Tánh khởi từ bi chơn Phật hiện
Tâm hành từ thiện kiến Như Lai.
Phật, Thánh, Tiên có dạy rõ ràng
Ai người muốn đến cõi Tây phang
Giữ gìn trai giới cho trọn vẹn
Sớm muộn cũng qua tận Niết-bàn.
LỤC TỰ DI ĐÀ – NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Chữ NAM theo nghĩa cố tầm
Niệm Phật là niệm cái tâm vậy mà
Thường tình tánh nóng của ta
Phải mau dập tắt, lòng tà bỏ đi.
Chữ MÔ cũng rán làm y
Tâm không lẳng lặng vướng chi việc trần
Rán mà giữ giới chuyên cần
Phàm tâm dứt bỏ đặng gần Thánh Tiên.
Chữ A là giữ cho yên
Dưỡng tâm, dưỡng tánh lại chuyên dưỡng thần
Ngồi nằm đi đứng ân cần
Tùng tâm biệt niệm nhất trần biệt vô.
Chữ DI sâu nghĩa rán mò
Khí tinh nơi thận cần cho đủ đầy
Khuyên đừng dâm dục tạo gây
Báu nhà gồm hết đủ đầy thần thông.
Chữ ĐÀ có nghĩa sáng trong
Quán soi mọi vật khắp trong cảnh đời
Biển trần sóng bủa chơi vơi
Đạo mầu tịch chiếu rạng ngời thân tâm.
Chữ PHẬT là nói cái mầm
Hãy đem trí não mà tầm cho ra
Thế gian lựa giống nơi ta
Quỷ, Ma, Trời, Phật cũng là tại tâm.
CẢNH GIÁC
Dầu cho ở thế bậc cao quan…
Gẫm lại chẳng qua một chữ nhàn
Việc nước hưng vong và trị loạn
Đạo nhà bĩ thới với bi hoan!
Trả vay, vay trả không rồi rảnh
Vinh nhục, nhục vinh chẳng vẹn toàn
Khuyên thế đua chen mau trở gót
Dắt dìu ra khỏi cảnh thương tang!
Cụ PHAN THANH GIẢN
HỒI TÂM
Kẻ đi người đến tựu rồi tan!
Sự nghiệp kinh dinh thể dã tràng
Sanh giữa tình đời càng tủi hận!
Sống trong bể ái nghĩ thầm than!
Bao nhiêu danh lợi tình mơ mộng
Chút xẻo tài hoa cảnh ảo tàn!
Chẳng luận gái trai, già bịnh chết
Vô thường giục thúc tựu rồi tan!
ÁNH ĐẠO VÀNG
Nhìn cuộc thế đầy lòng thê thảm!
Cảnh trần gian hôn ám mịt mù
Vậy mà sao chẳng chịu tu?
Để cho hoàn cảnh mặc dù chuyển xoay
Vì chẳng rõ trần ai khổ não
Mọi sự đều mộng ảo vô thường
Bao lần biến đổi tang thương!
Sanh, già, đau, chết là đường thế gian
Mà lắm kẻ còn đương chìm đắm
Trút hơi rồi còn nấm mồ hoang!
Nhìn xem là đống xương tàn!
Cỏ xanh bao phủ tràng phan bịt bùng…
Nào mấy kẻ anh hùng nghĩ đến
Nên vẫn còn tham mến lợi danh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét