2.1- Sơ Lược Tiểu Sử Tôn Sư sáng lập hệ phái
Tôn Sư Minh Đăng Quang thế danh là Nguyễn Thành Đạt, tự là Lý Hườn, sinh ngày 26 tháng 9 năm Quí Hợi (1923), tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long (nay là Ấp 6, xã Hậu Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long). Ngài sinh trưởng trong gia đình thuộc thành phần trung nông, có nề nếp Nho giáo. Thân phụ là cụ Nguyễn Tồn Hiếu, thân mẫu là bà Phạm Thị Tỵ, bà đã qua đời vì chứng bệnh tim sau khi sinh Ngài được 10 tháng. Thuở còn trong nôi Ngài được bà ngoại nuôi dưỡng đến 3 tuổi, rồi sau đó được bà kế mẫu (Hà Thị Song) đem về nuôi dưỡng. Vào năm 1929, phong trào Việt Minh nổi lên rất mạnh nên gia đình di cư lên thị xã Vĩnh Long, xóm cầu kinh cụt (phường 1) và Ngài được gởi đến học ở trường Tống Phước Hiệp (nay là trường Lưu Văn Liệt). Đến năm 1937, năm 14 tuổi, Ngài nghỉ học với chí nguyện xuất gia tầm đạo, nhưng thân phụ không cho. Năm sau (1938) Ngài từ giã gia đình sang CamPuChia tu học theo Phật giáo Nam Tông (Theravada). Đến năm 1941, Ngài trở về Việt Nam và vâng lời thân phụ kết hôn với cô Kim Huê, con gái nuôi của ông Hội Đồng Nhiều ở Chợ Lớn-Sài Gòn. Sau khi lập gia đình, Ngài đi làm cho nhà hàng Nguyễn Văn Trận, rồi sang làm ở hảng xà bông Việt Nam . . .
Trong thời gian này (1942), vợ Ngài sanh được một người con gái, tên là Kim Liên được vài tháng sau cô Kim Huê đã từ trần. Sau đó Ngài gởi con cho người chị là Nguyễn Linh Hoa nuôi dưỡng và quyết tâm xuất gia tầm đạo giải thoát. Về quá trình xuất gia tu học trong Chơn Lý, Ngài viết: "Minh Đăng Quang Khất Sĩ Xuất Gia (1944 tại Vĩnh Long) đi tu tìm học nơi hai giáo lý Ðại Thừa, Tiểu Thừa của Miên và Việt Nam. Năm 1946, nạn khói lửa chiến tranh danh lợi, đốt phá núi rừng làm cho người tu không chỗ ở, lại thêm nạn cướp bóc, không cho kẻ sĩ hiền làm việc nuôi thân sống tạm, Minh Đăng Quang rời khỏi xứ Cao Miên trở về Việt Nam thực hành giới luật Tăng đồ tại tỉnh Mỹ Tho cho đến năm 1948. Giáo pháp Khất sĩ đến Sài Gòn năm 1948" (Chơn Lý-Nguồn Khất Sĩ Việt Nam-TS. Minh Đăng Quang- trang 879-NXB Tp Hồ Chí Minh-1989). Như Vậy căn cứ theo bộ Chơn Lý thì năm 1946 Ngài thọ giới Tỳ-Kheo tại chùa Linh Bửu, làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho. Năm 1947, Ngài đã độ nhiều đệ tử xuất gia và bắt đầu cho xây cất tịnh xá. Năm 1948, Ngài hành đạo đến Sài Gòn, tiếp tục hoằng hóa Phật pháp. Đến năm 1954, trên đường hành đạo về các tỉnh Cần Thơ mới đến Bắc Cái Vồn (huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long) thì bị bọn ông Trần Văn Soái (Năm Lửa) bắt đi mất tích đến nay.
Tác phẩm Giáo lý của Ngài còn lưu lại cho hậu thế là bộ Chơn Lý, gồm có 69 tiểu phẩm, và Bồ-Tát giáo (bộ này chưa được phổ biến rộng).
2.2- Sự Hình Thành Và Phát Triển Của Hệ Phái Khất Sĩ Việt Nam
2.2.1- Hóa Trình Hình Thành (1944-1954)
Theo Chơn Lý ở bài Nguồn Khất Sĩ Việt Nam trang 879, thì ghi rằng vào năm 1946 Tôn Sư Minh Đăng Quang đã phát nguyện thọ giới Tỳ-Kheo tại chùa Linh Bửu, làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho, và có thể xem đây là đạo tràng hành đạo đầu tiên của Ngài. Cũng trong thời gian này Ngài hướng dẫn Phật tử ở làng Phú Mỹ, Mỹ Tho dựng tịnh xá (TX) Mộc Chơn đây là ngôi tịnh xá đầu tiên do Ngài hướng dẫn xây cất để mở đạo. Sang năm 1947, Tôn Sư đã thâu nhận nhiều đệ tử Tăng Ni. Với hơn 20 người đệ tử, lần đầu tiên Ngài tổ chức Lễ Tự Tứ ở chùa Kỳ Viên (Sài Gòn), vào năm 1948. Ngài thành lập một Tiểu Giáo Hội gồm 20 vị Tỳ-Kheo này (theo sự phân chia của Tổ Sư thì một Tiểu Giáo Hội có 20 Tỳ-Kheo, và Trung Giáo Hội có 100 Tỳ-Kheo, một Đại Giáo Hội có 500 Tỳ-Kheo). Từ năm 1948 đến năm 1953, Ngài tổ chức Tăng Ni đi hành đạo rất nhiều nơi ở hai miền Đông, Tây Nam Bộ như: Vĩnh Long, Sài Gòn, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Tây Ninh, Bà Rịa-Vũng Tàu, Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Đốc, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh, đến đâu cũng thuyết pháp giáo hóa nhân sinh. Với giáo Lý trong sáng, với hạnh Tứ Y Pháp thanh cao của Ngài được hàng vạn tín đồ quy ngưỡng, nhiều người phát tâm xuất gia tu học. Tính đến năm 1953 Tôn Sư thâu nhận được 49 đệ tử Tăng như các Ngài: Giác Chánh, Giác Tánh, Giác Như, Giác Tịnh, Giác An, Giác Trụ, Giác Thần, Giác Thọ, Giác Lượng, Giác Tôn, Giác Thủy, Giác Hoằng, Giác Thanh, Giác Hạnh, Giác Hải, Giác Lập, Giác Nhơn, Giác Hòa, Giác Đức, Giác Nguyên, Giác Thường, Giác Thống, Duyên, Giác Giới, Giác Lý, Giác Nhiên, Giác Phải, Giác Hùng, Giác Nhự, Giác Lượng, Giác Tân, Giác Ẩn, Giác Trung, Giác Sơn, Giác Bảo, Giác Trí, Giác Ý, Giác Thành, Giác Nghiêm, Giác Hương, Giác Hiếu, Giác Quí, Giác Đạo, Giác Chơn, Giác Pháp, Giác Hành, Giác Hồng, Giác Bửu, Giác Hội. (Minh Đăng Quang Pháp Giáo-Hàn Ôn).
Đệ Tử Ni được 53 vị như các Ngài: Huỳnh Liên, Bạch Liên, Thanh Liên, Kim Liên, Ngân Liên, Chơn Liên, Quang Liên, Tạng Liên, Trí Liên, Đức Liên, Bửu Liên, Hồng Liên, Giác Liên, Diệu Liên, Vân Liên, Thiện Liên, Tràng Liên, Tánh Liên, Nghiêm Liên, Châu Liên, Quảng Liên, Hưng Liên, Tuệ Liên, Ngoạc Liên, Hà Liên, Viên Liên, Văn Liên, Phổ Liên, Ký Liên, Ngọc Liên, Thông Liên, Tân Liên, Đàn Liên, Chánh Liên, Hạnh Liên, Sanh Liên, Minh Liên, Triết Liên, Liễu Liên, Mỹ Liên, Nhã Liên, Cầm Liên, Nhan Liên, Chiêu Liên, Diện Liên, Phương Liên, Phục Liên, Tố Liên, Hiểu Liên, Phấn Liên, Pháp Liên, Khâm Liên, Vĩnh Liên. (Sự Hình Thành Và Phát Triển Của Hệ Phái Khất Sĩ- Thích Giác Trí-sđd)
Để mở rộng phạm vi hành đạo cũng như cơ sở hoằng pháp Tổ Sư đến nơi nào có điều kiện thì lập tức cho dựng tịnh xá. Chỉ trong khoảng 10 năm hành đạo hệ phái của Ngài đã xây dựng được 30 tịnh xá như: TX. Mộc Chơn (Mỹ Tho), TX. Pháp Vân (Vĩnh Long), TX. Trúc Viên (Vĩnh Long), TX. Ngọc Thuận (Vĩnh Long), TX. Ngọc Viên (Vĩnh Long), TX. Ngọc Trung (Thốt Nốt- Cần Thơ), TX. Ngọc Minh (Cần Thơ), TX. Ngọc Quang (Sa Đéc- Đồng Tháp), Ngọc Thọ (Nhà Bàng- Châu Đốc), TX. Ngọc Liên (Cần Thơ), TX. Ngọc Vân (Trà Vinh), TX. Ngọc Thành (Long An), TX. Ngọc Thạnh (Tây Ninh), TX. Ngọc Chánh (Sài Gòn), TX. Ngọc Khánh (Sóc Trăng), TX. Ngọc Phước (Phụng Hiệp- Cần Thơ), TX. Ngọc Long (Long Xuyên), TX. Ngọc Thanh (Cây Lậy- Tiền Giang), TX. Ngọc Bình (Thủ Dầu Một- Bình Dương), TX. Ngọc Thặng (Thủ Thừa- Long An), TX. Ngọc Sơn (Chợ Lớn- Sài Gòn), TX. Ngọc Bửu (Biên Hòa), TX. Ngọc Phú (Châu Đốc- An Giang), TX. Ngọc Huệ (Mỹ Tho), TX. Ngọc Bích (Vũng Tàu), TX. Ngọc Lâm (Phú Lâm- Sài Gòn), TX. Ngọc Hải (Rạch Giá- Kiên Giang, TX. Ngọc Ôn (Ô Môn- Cần Thơ), TX. Ngọc An (Dĩ An- Bình Dương), TX. Bửu Long (Biên Hòa) (sđd).
Về mặt pháp lý, theo sổ hành đạo có đính kèm văn bản số 194/ 6T của Thủ Hiến Nam Việt do ông Đốc Phủ sứ Nguyễn Văn Diệu ký vào ngày 21/ 1/ 1954 cho đoàn du Tăng Khất Sĩ đi hành đạo đến địa phương nào thì trình sổ này ra và xin chính quyền địa phương nơi ấy cho phép hành đạo thuyết pháp.
Như vậy, từ khi Tôn Sư Minh Đăng Quang cất bước hành đạo cho đến lúc vắng bóng (1954) chỉ trong khoảng 10 năm, Ngài đã độ được hơn 100 Tăng Ni, cảm hóa hàng vạn Phật tử, xây dựng 30 ngôi tịnh xá, được chánh phủ cho phép hành đạo thuyết pháp. Có thể nói đây là những thành tựu rất khả quan mà Ngài đạt được trong thời đó. Những thành tựu này là cơ sở vững chắc cho HPKSVN phát triển về sau.
2.2.2- Giai Đoạn Phát Triển (1955-2000)
2.2.2.1- Thời kỳ hoằng pháp, thành lập giáo đoàn (1954-1975)
Sau khi Tổ Sư vắng bóng (1954) với tâm nguyện của Ngài cũng như nhiệm vụ hoằng pháp của các đệ tử còn lại, HPKSVN đã được truyền bá ra đến Miền Trung, Vị Trưởng đoàn du Tăng do TT. Giác Chánh hướng dẫn. Năm 1956, Đoàn du Tăng hành đạo đến các nơi: Phan Thiết, Phan Rí, Phan Rang, Nha Trang; năm 1957, hành đạo đến các tỉnh: Đà Lạt, Khánh Hòa, Tuy Hòa (Phú Yên), Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Thừa Thiên; năm 1958, hành đạo đến những tỉnh như: Đà Lạt, Khánh Hòa, Tuy Hòa, Bình Định, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Thừa Thiên; năm 1961, hành đạo đến các nơi: Quy Nhơn, Thừa Thiên, Quảng Trị, Đông Hà. Phạm vi hoằng pháp trong thời kỳ này rộng lớn như thế và số lượng Tăng Ni, tín đồ Phật tử tăng nhanh nên khuynh hướng thành lập giáo đoàn để phát triển HPKS đã xảy ra. Cụ thể là sau chuyến đi đầu tiên TT. Giác Chánh dẫn đoàn du Tăng về miền Nam, một số vị đã ở lại miền Trung để hành đạo gồm có 2 giáo đoàn.(Đó là) Giáo Đoàn thứ I của Trưởng Lão Giác Tánh và Trưởng Lão Giác Tịnh. Giáo Đoàn thứ II của Trưởng Lão Giác An. Hai Giáo đoàn này hình thành năm 1956. Lần lượt đến năm 1959, Giáo đoàn của TT. Giác Nhiên được thành lập; năm 1960, Giáo đoàn của Trưởng Lão Giác Lý được thành lập. Đến năm 1963 Giáo đoàn của TT. Giác Huệ thành lập (nhưng lại hoạt động riêng mãi đến tháng 08/ 1983 thì mới hòa hợp trong tổ chức HPKSVN". Sự hình thành của các Giáo Đoàn đã xuất hiện, chúng ta có thể tìm hiểu sơ lượt như sau:
- Giáo Đoàn 1: Vị Trưởng đoàn là HT. Giác Chánh. Giáo đoàn này lấy Tịnh xá Ngọc Viên (Vĩnh Long) làm Tổ Đình. Tính từ năm 1954- 1975, Giáo Đoàn có khoảng 50 vị Tăng, xây dựng 7 tịnh xá, 3 tịnh thất.
- Giáo Đoàn 2: HT. Giác Tánh là Trưởng đoàn. Tịnh xá Ngọc Trang (Nha Trang) là Tổ Đình của Giáo đoàn này. Đến năm 1975, Giáo Đoàn có 65 vị (trong đó có 30 học Tăng), xây dựng được 15 tịnh xá.
- Giáo Đoàn 3: Trưởng Lão Giác An là Trưởng đoàn. Giáo Đoàn này lấy Tịnh xá Ngọc Tòng (Nha Trang) làm Tổ Đình. Đến năm 1975, Giáo đoàn có 30 vị, xây dựng được 24 tịnh xá, 2 tịnh thất.
- Giáo Đoàn 4: Vị Trưởng đoàn là HT. Giác Nhiên, Pháp Viện Minh Đăng Quang (Tp.HCM) là Tổ Đình của Giáo đoàn. Tính đến năm 1974, Giáo đoàn có 171 vị Tăng, xây dựng được 35 tịnh xá.
- Giáo Đoàn 5: Trưởng Đoàn là Đức Thầy Giác Lý. Tịnh xá Trung Tâm (Q6. Tp. HCM) là Tổ Đình của Giáo đoàn này. Từ Năm 1954- 1975, Giáo Đoàn có khoảng 70 vị, xây dựng 26 tịnh xá.
Song song với sự hình thành của các Giáo đoàn Tăng, Ni Giới Khất Sĩ cũng đã được thành lập gồm có 3 tổ chức Ni.
1. Ni Giới Khất Sĩ của Ni Trưởng Huỳnh Liên: tổ chức này do Ni Trưởng Huỳnh Liên lãnh đạo. Tịnh xá Ngọc Phương (Q.Gò Vấp- Tp.HCM) là Tổ Đình của Ni Giới Khất Sĩ. Tính đến năm 1987 Tổ chức này có 82 tịnh xá.
2. Ni Giới Giáo Đoàn 4: có Giáo Đoàn Ni Trưởng Ngân Liên và Giáo Đoàn Ni TRưởng Trí Liên.
- Giáo Đoàn Ni Trưởng Ngân Liên: Giáo Đoàn này do Ni Trưởng lãnh đạo, Lấy Tịnh xá Ngọc Tiên (Hà Tiên) làm Tổ Đình.
- Giáo Đoàn Ni Trưởng Trí Liên: Ni Trưởng Trí Liên là Trưởng đoàn, lấy Tịnh xá Ngọc Hiệp (Châu Thành- Tiền Giang) là Tổ Đình của Giáo đoàn này. Tính đến năm 1975, Giáo Đoàn xây dựng được 7 tịnh xá, nhận của Tăng Giáo đoàn 4, 3 tịnh xá.
3.Ni Giới Giáo Đoàn 3: Ni Giáo đoàn này do Trưởng Lão Giác An lãnh đạo, lấy Tổ Đình Nam Trung và Tịnh xá Ngọc Tòng (Nha Trang) làm Tổ Đình. Đến năm 1978, Giáo Đoàn có 30 vị, xây dựng được 8 tịnh xá, 1 tịnh thất.
Như vậy, thời kỳ hoằng pháp và thành lập Giáo Đoàn (1954- 1975), chỉ trong khoảng thời gian có hơn 20 năm mà HPKSVN thành lập được 5 Giáo Đoàn Tăng, 3 Giáo Đoàn Ni, với số lượng khoảng hơn 416 vị (đó là chưa thống kê được số lượng Ni Giới Khất Sĩ của Ni Trưởng Huỳnh Liên, và Ni Giới Giáo Đoàn 4), xây dựng được 125 tịnh xá, 7 tịnh thất. Những thành tựu này cho thấy thời kỳ này HPKS của Tôn Sư Minh Đăng Quang rất phát triển so với các tổ chức PGKS đương thời.
2.2.2.2- Thời Kỳ trụ xứ tu tập và hòa hợp Giáo hội (1976- 2000)
2.2.2.2.1- Thời kỳ trụ xứ tu học (1976- 1980)
Trước năm 1975 chư Tăng Ni du phương hành đạo thì chỉ cần giấy đạo của Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ cấp là được, nhưng từ sau ngày 30/ 4/ 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất theo tổ chức hành chánh của nhà nước đương thời thì chư Tăng Ni phải có sổ hộ khẩu, người đi hành đạo phải có đơn xin phép tạm trú, tạm vắng của địa phương. Do đó, hầu hết chư Tăng Ni Khất Sĩ trong giai đoạn này đều ở tại tịnh xá tu học, đây cũng là nguyên nhân mà chư Tăng Ni Khất Sĩ gọi thời kỳ này là thời kỳ trụ xứ tu học. Theo truyền thống Khất sĩ trước kia, những vị sư nào không du phương hành đạo thì ở lại tịnh xá tu học nhưng trong thời gian 3 hoặc 6 tháng phải đổi chỗ ở một lần. Vào thời kỳ này truyền thống ấy cũng không thể thực hiện được. Riêng chỉ có Đoàn du Tăng của TT. Giác Chánh hướng dẫn hành đạo mãi cho đến năm 1983 mới chấm dứt.
Tùy duyên bất biến là phương châm hoằng pháp, là đạo lý sống tuyệt vời của Phật Giáo, nên trong hoàn cảnh này chư Tăng Ni an trú trong tịnh xá tu học, có nhiều thời gian để tĩnh tọa tham thiền phát triển tâm linh. Bên cạnh đó có một số Tăng Ni vẫn tham gia đại biểu Quốc Hội, Mặt Trận Tổ Quốc, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ, Ban Liên Lạc Phật giáo Yêu Nước và các công tác TTXH khác. Tuy nhiên vẫn có thể nói HPKSVN trong thời kỳ này không được phát triển về nhiều mặt như những thời kỳ sau.
2.2.2.2.2- Thời kỳ hòa hợp Giáo Hội (từ năm 1981 đến nay)
Thời kỳ này sở dĩ gọi là thời kỳ hòa hợp Giáo Hội là vì 5 Giáo Đoàn Tăng và 3 Giáo Đoàn Ni trong HPKS của Tôn Sư Minh Đăng Quang đã hòa hợp vào GHPGVN tại Đại Hội Phật Giáo năm 1981 ở chùa Quán Sứ, Thủ Đô Hà Nội. HPKS này được xem là 1 trong 9 Hệ phái Phật Giáo đã thống nhất, hòa hợp chung trong ngôi nhà GHPGVN. Đến năm 1983, thì Giáo Đoàn của TT. Giác Huệ gia nhập vào HPKS của Tôn Sư Minh Đăng Quang. Vì thế theo thứ tự Giáo Đoàn được đặt tên là Giáo Đoàn 6 của Hệ Phái. Và như vậy, kể từ năm 1983, HPKS này có 6 Giáo Đoàn Tăng, 3 Giáo Đoàn Ni (Ni Giới Khất Sĩ của Ni Trưởng Huỳnh Liên, Giáo Đoàn Ni thuộc Tăng Giáo Đoàn 3 và Giáo Đoàn Ni thuộc Tăng Giáo Đoàn 4).
Với Sự Phát triển của Giáo Đoàn cũng như về số lượng Tăng Ni, thì công tác hoằng pháp- giáo dục của Hệ phái trong thời kỳ này cũng có chiều hướng đi lên. Tại TX. Trung Tâm (Q.Bình Thạnh- Tp.HCM) và TX. Ngọc Phương (Q.Gò Vấp- Tp.HCM) mở lớp Sơ cấp Phật học cho Tăng Ni quận nhà và của Hệ phái . Riêng ở TX. Ngọc Phương, TX. Ngọc Hòa (Tp.HCM) năm 2004, có mở lớp "Giới thiệu Đạo Phật" do Ni sư Tiến sĩ Thích Nữ Huệ Liên phụ trách. Và ở thời kỳ này phần lớn các Tăng Ni đều đi học ở các trường Phật Học trong và ngoài nước. Theo tuần Báo Giác Ngộ- số 216 ra ngày: 18/03/2004 (trang 7) cho biết HPKS này hiện có: 30 vị học Học Viện Phật Giáo, 50 vị học Trung Cấp Phật Học, trên 30 vị du học tại các nước: Ấn Độ, Trung Quốc (Đài Loan), Myanmar, Hoa Kỳ,...
Nếu như ở thời kỳ trước các mặt hoạt động của Hệ phái còn giới hạn thì vào thời kỳ này các Giáo Đoàn đã tích cực phát triển trên nhiều lãnh vực văn hóa Phật giáo. Điển hình như trong lãnh vực sáng tác một số tác phẩm của TT. Giác Toàn đã xuất bản: Tặng Phẩm Dâng Đời, Suối Về Huê Nghiêm, 64 Ngôi Tịnh Xá Của HPKS, và một số tác phẩm cũ được in lại để phổ biến nội bộ như: Thi Tập Giác Huệ, Tứ Kệ Tĩnh Tâm, Ánh Nhiên Đăng, thơ của Ni Trưởng Huỳnh Liên, Đồng thời vào những kỳ Lễ kỷ niệm 45 năm, 50 năm ngày vắng bóng của TS. Minh Đăng Quang tại TX. Trung Tâm đều có triển lãm tranh ảnh về HPKS. Về giáo lý tu tập trong thời kỳ này đã xuất hiện nhiều tịnh xá mở đạo tràng tu Tịnh Độ như: TX. Ngọc Trung (Tp. Cần Thơ), TX. Ngọc Tường (Tp. Mỹ Tho), TX. Ngọc Thạnh (tỉnh Tây Ninh), TX. Ngọc Vân (tỉnh Trà Vinh),... khác hơn trước đây hầu hết chư Tăng, Ni ở các tịnh xá đều tu thiền.
Song song với sự phát triển đó công tác TTXH của Hệ phái cũng rất phát triển. Có nhiều tịnh xá của Hệ phái đã thành lập Tuệ Tĩnh Đường. Những Tuệ Tĩnh Đường của TX. Trung Tâm (Q. Bình Thành- Tp.HCM), TX. Lộc Uyển (Q.6- Tp. HCM), Thiền Viện Ngọc Hạnh (tỉnh Vĩnh Long) hoạt động rất có hiệu quả. Và hầu hết các cơ sở tịnh xá, tịnh thất, tự viện trong các Giáo Đoàn của Hệ phái đều tích cực tham gia những công tác từ thiện xã hội.
Ngoài ra, trong thời kỳ này phần lớn các Giáo Đoàn đều lo trùng tu, sửa chữa lại những tịnh xá đã xuống cấp. Hầu hết các tịnh xá đều được xây cất lại rất khang trang, có kiến trúc đẹp. Theo thống kê của TT. Thích Giác Pháp, Thư ký của Hệ phái, thì đến năm 2003 HPKSVN có tổng số lượng tịnh xá, tịnh thất là 372 ngôi, và tổng số Tăng Ni khoảng 2000 vị.
Như vậy, thời kỳ hòa hợp Giáo Hội là thời kỳ HPKSVN phát triển gần như toàn diện. Nhưng nếu các Giáo Đoàn có sự đoàn kết, hòa hợp cao hơn nữa, lãnh đạo Trung Ương của Hệ phái tổ chức Phật sự phù hợp với những Giáo Đoàn thì chắc chắn Hệ phái sẽ thăng hoa hơn.
Thực hiện: TN. Ánh Liên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét