Thứ Bảy, 10 tháng 3, 2012

TRÍCH TỨ KỆ TĨNH TÂM


 Nhiều tác giả (Vi tính: Tâm Duyên)   Lời giới thiệu (Nhân kỳ in lại năm 1994 – PL. 2538)   Thái tử Tất Đạt Đa đản sinh năm 623 trước Tây lịch tại vườn Lâm Tỳ Ni, thành Ca Tỳ La Vệ, xứ Ấn Độ. Lớn lên giác ngộ cuộc đời vốn vô thường, khổ não, vô ngã, bất tịnh… Thái tử vượt hoàng thành vào rừng sâu, xuất gia tầm đạo, tu tập chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thành Phật, được môn nhơn đệ tử hằng niệm danh hiệu: “Nam-mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật”   Sau 80 năm hiện thân, tu khổ hạnh, hành đạo, hoằng pháp độ sanh, Ngài nhập diệt. Từ đó giáo pháp của Ngài dần dần toả rộng khắp năm châu.   Đạo Phật du nhập vào Việt Nam rất sớm, từ những thế kỷ đầu Tây lịch, và thấm dần, thấm dần, bàng bạc đến nay gần cuối thế kỷ hai mươi. Phật giáo Đại thừa phát triển ngày càng bén rễ sâu đậm trong lòng quê hương dân tộc.   Đến giữa thập niên 1940–1950, Tổ sư Minh Đăng Quang khai sơn hình ảnh nhà Du Tăng khất sĩ tại miền Nam Việt Nam, được xem như một hệ phái Phật giáo biệt truyền, đặc thù, chỉ có ở miền Nam Việt Nam: Hệ phái Khất Sĩ. Nhưng điều kém duyên cho hàng môn đồ là không đầy mười năm sau, Tổ sư vắng bóng (1944 - 1954).   Từ năm 1955 đến năm 1975, chư Tăng Ni khất sĩ nối tiếp gương hạnh Tổ Thầy, hoằng dương chánh pháp khắp vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, lên miền Đông Nam Bộ rồi đi suốt miền Trung Duyên Hải và Cao Nguyên, với hạnh nguyện:   Một bát cơm ngàn nhà                 (Nhất biều thiên gia phạn Thân đi muôn dặm xa                   Cô thân vạn lý du Muốn thoát vòng sanh tử             Dục cùng sinh tử lộ Xin độ tháng ngày qua                 Khất hóa độ xuân thu)   Và từ đó:   Một cành mà nở trăm hoa Bóng y bát đẹp quê ta tự rày Chân truyền Khất Sĩ là đây Bóng xưa với lại hình này dặm không!   Buổi đầu, một ngôi tịnh xá rồi mười ngôi, trăm ngôi. Chư Tăng Ni xuất gia cũng vậy - một vị, mười vị, rồi trăm vị, ngàn vị. Tín đồ cư sĩ tại gia thì lại càng đông hơn – hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn, hàng muôn, hàng triệu v.v…   Trong giới Tăng Ni, có người xuất gia tu học, hành đạo rồi đi trọn cuộc hành trình cho đến ngày công viên quả mãn, đạo nghiệp rạng ngời mãi mãi. Nhưng bên cạnh cũng có rất nhiều vị rơi vào trường hợp “bán đồ nhi phế”. Dù ở hoàn cảnh nào, các vị cũng đều khả dĩ ít nhiều có một dấu ấn lưu lại rất thân tình đạo vị trong lòng Tăng tín đồ thân thương. Đó là những bài kệ pháp được các vị viết nên từ những cảm khái hưng phấn trên bước đường hành đạo. Họ sáng tác nhiều thể loại: Lục bát, Song thất lục bát, Thất ngôn tứ tuyệt, hay Thất ngôn bát cú hoặc Bát ngôn trường thiên v.v… Điểm chung nhất mà các tác giả gặp nhau là ít khi họ ký tên hay bút hiệu của mình ở cuối bài thơ mà thường hay đề “Một vị sư Khất Sĩ”.   “Chim bay không lưu dấu”, đó cũng là dấu ấn chung của các vị đạo sư, thiền sư và hành giả học nhơn thời xưa cũng như thời nay trong giáo pháp Đức Phật. Sưu tầm lại những tấm gương sáng, những lời khuyến thiện hay từ những tấm lòng, những tâm đạo nhiệt thành trong sáng làm nên nhiều bài thơ kệ đạo lý của các thế hệ trên trước đi qua lưu dấu lại cho các thế hệ đi sau quả nhiên là điều chẳng những nên làm mà còn phải cố gắng làm liên tục, càng nhiều càng tốt.   Trong quá trình sưu tập, chọn lọc lại, chúng tôi xin sám hối cùng chư vị tác giả là có mạn phép giảm bớt một số bài không còn phù hợp tính “cơ lý” trước dòng thời gian. Mong rằng chư vị tác giả và Tăng Ni Phật tử độc giả rộng tình lượng thứ cho.   Thiết tưởng tập kệ pháp khuyến tu khuyến thiện này sẽ ít nhiều là món ăn tinh thần Pháp bảo đầy đạo vị an tịnh đối với Tăng Ni tín đồ Phật tử trên đường tu tập và hành đạo.   Cầu nguyện sự hỷ lạc tinh tấn đến với mọi tâm hồn những người con Phật hữu duyên.                                                                                           Cẩn bút                                                                Sa-môn GIÁC TOÀN   CHÂN NGÔN   Tự cao, Ngã mạn, Ỷ lại, Tham gian và Ái nhiễm là liều thuốc độc đưa người đến chỗ chết.   Nóng nảy, Đua tranh, Thù hiềm, Ganh tị, Độc ác là nấc thang dắt người xuống hố địa ngục.   Xu hướng, Dị đoan, Tà kiến, Ái dục và Si mê là nguồn gốc của sự luân hồi sanh tử.   Từ bi, Hỷ xả, Bác ái, Khoan dung… là giọt mưa cam lồ nhuần gội.   Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục và Tinh tấn… là diệu dược cứu nguy tâm hồn sa đọa.   Thiền định, Trí huệ, Giải thoát và Chơn như… là nấc thang lên đến Niết-bàn tột đỉnh.   Mỗi người có sẵn đèn lòng, Tự mình soi lấy, chớ trông tầm ngoài. Cũng đừng ỷ lại vào ai, Phật, Tiên, Hiền, Thánh, chính ngay tự mình.   PS. Giác Nhiên     PHẢI CHĂNG?   Tiếng lòng giục thúc thương nhân loại Mượn ngòi bút mực dệt thành thơ?   Lưu kỷ lời vàng trong vạn kỷ Thế nhân khó gặp kẻ siêu nhân?   Thuốc đắng khó dùng, mau hết bịnh Mực tàu đau gỗ, lợi nhân sinh?   Sự thật trở về theo lẽ thật Lời ngay, nói phải thật cho ngay?   Giải mở nỗi lòng, phiền não hết, Phân rành lý đạo, chỉ tu chơn? PS. Giác Nhiên   THAY LỜI TỰA   Tiếng chuông giục thức đêm trường mộng! “TỨ KỆ TỈNH TÂM” giác ngộ đời… *** Xin giới thiệu cùng quý chư độc giả! Tựa quyển này là “TỨ KỆ TỈNH TÂM” Tôi nhiều công, đã chọn lọc sưu tầm Trong bốn quyển nay kết thành lại một.   Quyển thứ nhất tên tựa là “KỆ PHÁP” Đã ra đời trên mười mấy năm qua Quyển thứ nhì, “PHÁP BẢO KỆ” in ra Đều tái bản được nhiều lần phổ biến.   Và kế tiếp, quyển thứ ba xuất hiện Tên tựa là quyển “BẢO KỆ TÂM KINH” Mấy quyển này tôi cố gắng tận tình Chọn rút lấy nhiều thi văn tuyệt tác.   Quyển thứ tư nhiều vị hương bát ngát Tên tựa đề là “PHÁP KỆ PHÁ MÊ” Nhiều thi thơ hay khỏi có chỗ chê THIỆN QUANG soạn của nhiều sư Khất Sĩ.   Bốn quyển trên, muốn ban hành Pháp thí Tôi ra công soạn rút những bài hay, Cả thi thơ có gần bốn trăm bài Đầy hương vị, thơm tho mùi Đạo lý!   Quý tác giả, tôi không rành địa chỉ Xin vui lòng hoan hỷ thứ dung cho, Còn riêng tôi cũng gắng sức chung lo Cố sáng tác những bài thi bất hủ.   Sức hiệp sức để kết nên thành tựu Làm phương châm, diệu dược cứu trần gian, Cũng gọi là một ngọn đuốc từ quang Dìu khách tục khỏi lầm đường lạc lối.   Thấy sanh chúng muôn ngàn điều tội lỗi Bị miếng mồi vật chất mãi bao vây Bị danh cương, bị lợi tỏa hàng ngày Bị tài, sắc, bị bạc tiền bêu nhử…   Màn vô minh đã phủ che án ngữ Trong mịt mờ thấy càng thảm càng thương! Mảng say mê trong giấc mộng canh trường Ôi! Đau khổ! Thế nhân, ôi mặc kệ!   Chuông tỉnh giác, sớm hồi tâm kẻo trễ Hỡi người ơi, chìm đắm mãi làm chi? Kìa bao người đang đổ lệ lâm ly Đành khóc hận cho kiếp đời đau khổ…   Cơ tận diệt khiến bão bùng giông tố Tiếng than van, rên rỉ cả ngày đêm! Tiếng kêu oan, tiếng oán hận càng thêm Lửa nung cháy, còn chế dầu chi nữa?   Mau dập tắt, mau dùng phương cứu chữa Là quay đầu hướng thiện trở về tu! Chỉ có tu mới vẹt phá mây mù Hầu xây dựng ngôi tòa chân hạnh phúc.   Xưa Đức Phật quyết tìm đường thoát tục Hy sinh đời để cứu vớt chúng sanh, Lòng từ bi không nỡ hưởng vui đành Thấy sanh chúng đang hụp trồi bể khổ.   Ngài phát nguyện đi khắp nơi hóa độ Chèo thuyền từ cứu vớt kẻ si mê Pháp viên âm, Ngài mưa xối tràn trề Cả muôn loại được thấm nhuần đạo lý.   Nay nhắc lại, trên hăm lăm thế kỷ Mà gương Ngài chiếu sáng khắp năm châu, Ân đức Ngài thật lớn rộng thâm sâu, Con nối chí, quyết tìm phương độ chúng!   Vùng đứng dậy, phất ngọn cờ oai dũng Mở tâm hồn càng rộng lớn thênh thang Hươi bút lên, quét sạch lũ tham tàn Dùng gươm huệ, diệt tiêu phiền não chướng!   Quyết tiến tới cho đạt thành chí hướng Quyết đắp xây một thế hệ ai lân Quyết phá tan bao khám ngục trong trần Quyết dựng lập một ngôi tòa đại giác!   Quyển “TỨ KỆ TỈNH TÂM” hàm bao quát Là pháp mầu, là diệu dược linh đơn Cứu vớt người về đến chỗ toàn chơn Và toàn thiện, toàn năng hay toàn mỹ…                                                            Cảnh Bồng Lai tịnh xá Ngọc Hương – Vũng Tàu                                                                   Mùa Hạ năm Bính Ngọ – PL. 2510                                                                              Pháp sư GIÁC NHIÊN   TÁN DƯƠNG QUÝ NGÀI TÁC GIẢ   Thi văn tuyệt tác ở nơi đây Khen ngợi quý ngài viết rất hay! Đánh trống Đại hùng kêu khách tục, Giộng chuông Bát-nhã chỉ về Tây. Lý cao siêu xuất, hương ngào ngạt Lẽ chánh tuyệt vời, vị ngọt ngay. Ngọc ngữ kim ngôn lưu vạn kỹ Tán dương thi sĩ bậc kỳ tài!   TÁN DƯƠNG CÔNG ĐỨC PHÁP THÍ   Phật dạy phước điền muốn rải ban Chỉ duy Pháp thí đứng đầu hàng: In kinh ấn tống bòn duyên phước, Thuyết pháp nhiệm mầu được rưới chan, Dịch các kinh văn ra phổ biến, Viết kinh, thi, kệ chỉ ngay đàng. Bốn điều công đức không chi sánh Pháp thí bao trùm khắp thế gian.   HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC CHUNG   Chúng con dâng hết tấm lòng mình Nguyện Phật ba đời độ chứng minh: Ân rộng quý ngài công sáng tác, Nghĩa sâu tín chủ góp tiền in, Người xem trau sửa rèn tâm tánh, Kẻ thí hài lòng trí huệ sinh… Phước đức nguyện chung hồi hướng chúng Âm siêu, dương thới hưởng thanh bình.   LỜI KHẤT SĨ KHUYẾN TU   Nay xuống bút vài hàng ngụ ý Tả đôi lời hữu chí cánh thành, Sống trong bầu vũ trụ đã đành Sao nhắm mắt đưa theo chiều gió?   Đồ vật chất tham giành cho có Bã lợi danh là gió làm duyên Cuộc hồng trần lắm nỗi đảo điên Cảnh đời ví như xiềng xích trói.   Có thân khổ làm sao tránh khỏi Mau nhìn đường tìm tỏi bước ra Vật trên đời như mật dính hoa Ghẹo bướm nọ, kêu ong nhử kiến.   Kẻ giác ngộ chớ vì tham luyến Thấy vật đời là miếng mồi trần Mến tham thì khổ lụy tấm thân Nên mau dứt, lìa trần giải thoát.   Thấy thời thế đắng, cay, chua, chát… Cứ vì nhau xô xát mãi hoài Thương chúng sanh vũ trụ muôn loài Cam khốn khổ biết ngày nào hết?   Còn khổ bịnh, khổ già, khổ chết Nỗi vô thường là vết đầu tiên Trong chúng sanh tất cả các miền Sanh với diệt xoay chuyền liên kết.   Nếu có sống ắt là có chết! Sự nghiệp tan như kết vầng mây Sống con người rày đó mai đây Như đèn nọ treo ngay trước gió.                                                               Nhìn thấy đó bỗng liền mất đó Nó vô thường huyễn hoặc lắm thay! Phận con người ở chốn trần ai Thân cũng tạm, vật nay cũng tạm!   Chớ tham đắm mà tâm mờ ám Bụi hồng trần khuyến cám dụ người Làm cho ta lỡ khóc lỡ cười… Mà có bấy nhiêu người hiểu rõ?   Nhớ thuở trước anh hùng Hạng Võ Lược thao tài có mấy ai hơn… Rốt cuộc rồi đến lúc lâm cơn Cắt đầu nạp giao cho Hàn Tín.   Cũng lắm kẻ bao người dự thính Thì về sau cũng dính tay không Giống dã tràng xe cát biển Đông Rủi lượn sóng, uổng công khó nhọc.   Thương kẻ dốt mà không chịu học Trốn bỏ trường đi chọc phá đời Theo văn minh nhiễm thói chơi bời Nên khốn khổ cho thời lầm lạc.   Cũng chẳng khác con bò hông mạc Thấy bóng đèn cứ tạt nhảy vô Thảm thương thay! Chết héo, chết khô Mà chẳng rõ cơ đồ tại nó…   Mây cuồn cuộn đưa theo chiều gió Sau lâu ngày cũng có rã tan, Cảnh hồng trần là cuộc mơ màng Thay đổi mãi hết tan đến hiệp.   Sự mộng ảo diễn ra liên tiếp! Cái vô thường kiếp kiếp chóng mau Người chẳng lo đường đạo bước vào Tu giải thoát ngày sau vĩnh viễn.   Chớ tham đắm cuộc đời mộng huyễn Nào thân bằng, quyến luyến vợ con Cũng đền đài, kiệu phụng, lầu son Và cha mẹ, bà con, bạn hữu…   Vì tham tiếc của tiền đầy tủ Vật chất nhiều quyến rũ kéo lôi Cả tiếng kêu người trí kia ôi! Mau dứt nó cho rồi rảnh khổ.   Hồi thuở trước Thích Ca Phật Tổ Còn lìa trần kiếm chỗ tu thân Bỏ lầu đài, cung điện, mỹ nhân Cùng vợ đẹp, con thơ kia đó.   Ngài còn nói cạn lời phân tỏ Đường sông mê thật khó lướt qua Nhưng Ngài nghĩ đó là biển khổ Nên mau mau kiếm chỗ thoát thân.   Ngài nói rằng: Cảnh thế bụi trần Sự giả tạm do nhân duyên hiệp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét