Thứ Sáu, 9 tháng 3, 2012

TIỂU SỬ ĐỨC TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG

LỜI NÓI ĐẦU
Cách nay trên hai ngàn năm trăm năm, đạo Phật ra đời tại Ấn Độ, do đức Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập. Đạo Phật ban đầu phát triển mạnh trên đất Ấn rồi dần dần lan rộng sang các nước xung quanh theo hai hướng Nam truyền và Bắc truyền. Vào khoảng đầu thế kỷ thứ I, đạo Phật bắt đầu du nhập vào Việt Nam. Từ đó đạo Phật đã gắng bó trên đất nước ta đồng thời dẫn dắt tâm linh của người dân Việt trong suốt chiều dài lịch sử thăng trầm của dân tộc. Đến khoảng thập niên 40 của thế kỷ 20, tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, Phật giáo Việt Nam có thêm một hệ phái mới do tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập. Với tinh thần " Nối truyền Thích Ca Chánh Pháp, Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam", Tổ sư đã sáng tạo nên một hệ phái Phật giáo biệt truyền chỉ có ở Việt Nam. Đó là hệ phái Phật giáo Khất sĩ với tinh thần dung hợp tinh hoa của hai truyền thống Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền.

Từ khi ra đời đến nay, hệ phái Phật giáo Khất sĩ đã không ngừng lớn mạnh về số lượng Tăng ni và cơ sở tự viện. Hình dáng nhà sư với mảnh y vàng phất phới, những ngôi đạo tràng tịnh xá trang nghiêm, cùng với hạnh trì bình khất thực y như Phật Tăng xưa đã trở thành quen thuộc với tất cả mọi người. Phật giáo Khất sĩ đã có mặt hơn 50 năm và đã đứng vững trong lòng giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng như trong mỗi người con phật. Tất cả những công trình lớn lao ấy được ươn mầm bởi vị tổ khai sáng, đức Tổ sư Minh Đăng Quang. Tuy nhiên, Tổ sư Minh Đăng Quang xuất hiện như một vì sao sáng trên bầu trời Phật giáo Nam Việt thập niên 40-50 rồi vĩnh viễn ra đi không dấu vết. Khiến cho bao người con Phật, đặc biệt là Tăng ni, tín đồ hệ phái Phật giáo Khất sĩ thương tiếc không nguôi.



Tổ sư mới vắng bóng khoảng hơn 50 năm, một thời gian không dài lắm, nhưng muốn tìm hiểu cho chính xác cuộc đời và sự nghiệp của Ngài quả thật không dễ. Nhằm giúp ích cho Tăng ni, Phật tử và các nhà nghiên cứu tìm hiểu lịch sử của tổ sư một cách trung thực, chúng tôi cố gắng biên soạn một tài liệu về lịch sử Tổ sư chính xác va hoàn bị hơn các công trình trước đây. Chúng tôi hy vọng đây sẽ là một tài liệu lịch sử chuẩn về tổ sư Minh Đăng Quang để tiện cho Tăng ni và Phật tử nghiên cứu tu học. Việc làm nầy xuất phát từ những lý do sau :

_ Ngày nay, nhiều người muốn tìm hiểu lịch sử tổ sư nhưng không biết tài liệu nào là chuẩn xác. Việc có một tài liệu lịch sử làm chuẩn cho việc học tập nghiên cứu là một yêu cầu cấp thiết.

_ Tổ sư đã vắng bóng trên 50 năm, những tài liệu nói về Ngài lại quá khiêm tốn nghèo nàn. Nếu ngày nay không cố gắng làm thì các thế hệ sau càng khó truy tìm dấu tích lịch sử tổ sư hơn.

_ Trong vòng mấy chục năm nay cũng có một vài công trình viết về lịch sử của tổ sư nhưng lại quá sơ lược và không thống nhất về sử liệu. Vã lại những tác phẩm ấy do các cá nhân tâm quyết làm ra cho nên còn ít nhiều bất cập. Vì thế công trình lần nầy do tập thể biên soạn và đóng góp ý kiến hy vọng sẽ hoàn bị hơn.

Trong lần biên soạn nầy, chúng tôi có tham khảo các công trình viết về tổ sư viết trước đây. Như tác phẩm Minh Đăng Quang Pháp Giáo của soạn giả Hàn Ôn, luận văn viết về Sự Hình Thành Và Phát Triển Của Hệ Phái Khất Sĩ của sư Giác Trí và một vài tư liệu khác. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đánh giá, so sánh, đối chiếu các dữ liệu để chọn ra một sử liệu hợp lý nhất. Ban biên soạn cũng tham khảo ý kiến của chư tôn đức Tăng ni đệ tử của tổ hay gần thời tổ. Ngoài ra, gia đình bên tổ sư cũng cung cấp một số giai thoại về thời niên thiếu của ngài cho ban biên tập.

Công trình nầy tuy không đưa ra một phát hiện nào mới nhưng có thể giúp ích cho những người muốn tìm hiểu về cuộc đời của tổ sư. Đặc biệt những Tăng ni trẻ có thể nắm bắt một cách trung thực về thầy tổ của mình. Với những tư liệu khiêm tốn như hiện nay, tài liệu lịch sử nầy chắc không thể tránh khỏi những điều sơ sót. Chúng tôi mong các vị vui lòng góp ý bổ chánh cho, để ban biên soạn bổ sung cho tác phẩm được hoàn bị hơn.

CHƯƠNG I

BỐI CẢNH LỊCH SỬ THỜI ĐẠI TỔ SƯ

1. Nam bộ là vùng đất mới khai phá ở miền cực Nam của nước Việt. Nơi đây có hai con sông lớn là sông Tiền và sông Hậu nước ngọt quanh năm. Đất đai được phù sa của hai dòng sông trên bồi đắp nên rất trù phú. Những vườn cây trái xum sê xanh mướt, những cánh đồng cò bay thẳng cánh và hệ thống sông rạch chằng chịt là đặc điểm của Nam Bộ. Dân cư đông đúc nhưng phần nhiều sinh sống ở ven sông rạch và các đường bộ quan trọng. Từ lâu ba dân tộc Kinh, Hoa, Khơ me sống vui vẻ hài hoà trên miền đất giàu tiềm năng nầy. Đồng bằng Nam Bộ được thiên nhiên ưu đãi, khí hậu ôn hoà, đất đai phì nhiêu. Cho nên người dân rất hiền hoà, chất phác và thân thiện. Đạo Phật, đạo Nho, đạo Lão là ba tôn giáo lâu đời cũng là chỗ dựa tinh thần của của họ. Ngoài ra khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, các đạo giáo địa phương cũng lần lược ra đời ở Nam Bộ. Đó là các đạo giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Hoà Hảo, Cao Đài. Các tôn giáo mới nầy mang ít nhiều chất liệu Phật giáo nhưng không phải một tông phái nào của đạo Phật và rất nặng về tín ngưởng, thần quyền. Sự xuất hiện các đạo giáo mới nầy ở Nam Bộ góp phần làm suy yếu đi các đạo giáo truyền thống.

2. Nam Bộ trước thế kỷ 19 thuộc quyền cai trị của chính quyền nhà Nguyễn. Đến năm 1867 thực dân Pháp xâm lược miền Nam và cai trị cho đến gần cuối chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sau đó người Nhật lại nhảy vào. Năm 1946 Pháp trở lại xâm chiếm Nam Bộ. Có thể nói trong gần 100 năm, Nam Bộ bị trong tình trạng kìm kẹp của thực dân, phong kiến, loạn lạc và chiến tranh. Vì thế đời sống của người dân rất khó khăn, trình độ dân trí thấp kém, các đạo giáo truyền thống đều suy tàn. Người dân phần nhiều nương vào các đạo giáo địa phương nặng về tín ngưởng, thần quyền. Đạo Phật theo hoàn cảnh thời cuộc cũng suy yếu theo và chỉ còn là cái bóng mờ nhạt.

3. Tuy nhiên, theo quy luật biến thiên vô thường của vũ trụ, các pháp thịnh suy biến đổi cho nhau. Đạo Phật trong một thời gian dài bị chìm vào quên lãng nay bổng bừng tỉnh giất và đảm nhận trách nhiệm trọng đại của mình.Vào thập niên 20 của thế kỷ 20 phong trào chấn hưng Phật giáo được phát động trên khắp cả ba miền. Tại miền Nam, người đi tiên phong trong trào chấn hưng là tổ Khánh Hoà và nhiều vị hoà thượng Bắc tông có tâm huyết. Đến đầu thập niên 40, Phật giáo đã có chút sinh khí trở lại. Tổ sư Minh Đăng Quang ra đời trong thời gian nầy đã góp phần vào công cuộc chấn hưng của Phật giáo nước nhà nói chung. Đồng thời khai sinh nên một hệ phái Phật giáo mới mà chẳng bao lâu đã lan tỏa khắp hai miền Nam Trung nước Việt.

CHƯƠNG II

THỜI NIÊN THIẾU VÀ TRƯỞNG THÀNH CỦA TỔ SƯ

1. Đức tổ sư Minh Đăng Quang lúc thiếu thời có thế danh là Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Hườn. Thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Tồn Hiếu, thân mẫu là cụ bà Phạm Thị Tỵ, tự Nhàn. Cụ bà mang thai ngài mười hai tháng mới sinh. Ngài chào đời vào 10 giờ tối ngày 26 tháng 9 năm Quý Hợi, nhằm 04-11-1923 tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long ( Nay là ấp 6 xã Hậu Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long). Ngài là người con út trong gia đình có 5 người con. Lúc ngài được 10 tháng tuổi thì mẹ bị bệnh tim nặng và qua đời vào ngày 25-07-1924. Sau khi mẹ qua đời, cậu bé Lý Hườn được một người cô mang về nuôi khoảng 1 tháng, rồi được gởi về quê cho bà nội nuôi dưỡng. Năm ngài lên ba tuổi, cụ ông tục huyền với bà kế mẫu Hà Thị Song rồi rước ngài về nhà nuôi cho đến lúc trưởng thành.

2. Ngài học nói khá chậm so với các trẻ bình thường. Năm 4 tuổi mới biết nói và thường sử dụng những danh từ ngộ nghỉnh như nói uống trà bằng hít trà, gọi cái mùng là cái bù .v.v... Thuở nhỏ ngài rất thông minh và đỉnh ngộ.Tuy sanh trưởng ở vùng quê nghèo hẻo lánh nhưng ngài lại rất hiếu học. Phong thái tươi sáng, oai nghi đỉnh đạt từ cách ăn cách nói đều hơn hẳn những đứa trẻ cùng trang lứa khiến cho mọi người yêu kính nể vì. Năm lên sáu tuổi chưa được đi học như các anh chị nhưng bài vở anh chị học đến đâu ngài đều thuộc đến đó. Có lần thân phụ thấy con thông minh hiếu học mới thử đem một cuốn sách học vần ra dạy. Cậu bé Lý Hườn được cha dạy một lần thì thuộc ngay. Bảy tuổi, ngài được thân phụ cho lên thị xã Vĩnh Long đi học như các anh chị. Trong thời gian đi học, ngài học hành rất chăm chỉ. Ngoài bài vở ở nhà trường ra, ngài còn nghiên cứu sách vở thánh hiền của cụ ông và tất cả sách vở thế học mà ngài có được. Tuyệt đối không có chơi bời như các bạn đồng trang lứa. Nhờ thế, cậu bé Lý Hườn có lẽ đã trang bị cho mình một số kiến thức khá căn bản về Tam giáo Thích, Đạo, Nho và các kiến thức thế học tại nhà trường.

3. Thân phụ của ngài là một nhà đạo đức, hiền lương cho nên được mọi ngưòi trong vùng kính mến. Lúc đầu ông theo Nho giáo về sau mến mộ đạo Phật. Chính nhờ hấp thụ nếp sống hiền lương, đức hạnh của truyền thống gia đình, cũng như qua việc ăn chay, niệm phật của phụ thân mà cậu bé Lý Hườn đã phát khởi lòng từ bi, thương người mến vật ngay từ nhỏ. Trời nắng, thân phụ cho tiền đi xe kéo, xe ngựa, ngài quyết không đi. Vì ngài không nở an lòng để người phu xe kéo nặng chạy dưới trời nắng như thiêu như đốt. Cụ bà cho tiền ăn quà vặt, ngài để dành cho những người ăn xin nghèo khổ tật nguyền. Thấy các bạn học trò nghèo thiếu áo mặc, ngài thương xót mang quần áo cho bạn.

4. Năm 14 tuổi, ngài đỗ bằng tiểu học. Gia đình muốn ngài đi học tiếp nhưng ngài từ chối. Bởi trong thời gian nầy, một tư tưởng xuất thế đã khởi lên nơi ngài. Tư tưởng nầy đã ấp ủ từ lâu nay đã trở nên mãnh liệt. Ngài nhận thâý cuộc đời người quả thật vô cùng ngắn ngủi. Như mẹ ngài mới 33 tuổi đã qua đời. Trong kiếp sống tạm bợ vô thường nầy con người lại si mê tạo nghiệp, đem đến sự đau khổ cho bản thân và nhân loại. Hoặc chỉ vì cơm áo, vợ con mà phải đầu tắt mặt tối không có thời giờ để rảnh trí tu tâm. Ngài không muốn đi theo lối thường của đại đa số người đời.Trong thời gian nầy, phụ thân của ngài thường đi qua Cam Bốt để học đạo với ông lục cả Keo rất nổi tiếng về đạo pháp cao siêu và bùa ngải, chú thuật. Lục cả Keo cũng thỉnh thoảng đến thăm viếng gia đình của ngài.Nhận thấy nơi vị thầy nầy có thể giúp ngài thực hiện con đường cứu nhân độ thế, cho nên vào năm 1937, cậu thanh niên Nguyễn Thành Đạt rời gia đình thân yêu, giã từ làng xóm quê hương thân thiết dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mới. Đi đến xứ người để tầm sư học đạo tại Cao Miên.

CHƯƠNG III

THỜI KỲ XUẤT GIA VÀ CHỨNG NGỘ ĐẠO QUẢ

1. Năm 1937, 15 tuổi, tổ sư rời Việt Nam đến xứ Cam Bốt tầm đạo. Trong khoảng một năm đầu ở Cam Bốt, ngài cũng thường hay đi về với gia đình. Ba năm tiếp theo ngài ở luôn với ông lục cả Keo và không về nhà. Trải qua 4 năm thử thách cam go, ngài đã học nhiều điều bổ ích từ vị thầy nầy. Bên cạnh đó ngài cũng để tâm nghiên cứu kinh điển Nam phương và đường lối tu tập hành đạo của Phật giáo Cam Bốt. Đến năm 1941, tổ sư xin phép thầy trở về Việt Nam thăm nhà và tìm cơ duyên hành đạo.

Trở lại nhà một thời gian, ngài lên Sài Gòn tìm việc làm. Ngài cho rằng muốn làm đạo thì việc đạo đã thông việc đời phải trải. Cho nên ngài chấp nhận một cuộc dấn thân mới. Có tâm nguyện như vậy, nhân thân phụ thúc giục lập gia đình và sẳn ơn cứu tử một cô gái, ngài đã kết hôn cùng cô Kim Huê là con gái nuôi của hội đồng Nhiều, người Chợ Lớn vào năm 1942. Vào khoảng cuối tháng Giêng năm 1943, cô Kim Huê hạ sanh một bé gái tên Kim Liên rồi vài tháng sau thì qua đời. Sau khi vợ mất, ngài ở nhà một thời gian và gởi con cho người chị thứ ba nuôi dưỡng. Kim Liên được 3 tuổi cũng đi theo mẹ. Sau khi vợ mất, ngài thường có vẻ trầm tư và hay nhìn về chân trời với vẻ mặt đăm chiêu. Phụ thân thấy lạ hỏi lý do thì ngài bảo có ý định xuất gia học đạo nhưng phụ thân vì quá thương con nên không đồng ý.

2. Bài học đau thương, bài học vô thường đã giúp cho tổ sư có được những kinh nghiệm thực tiển về sự vô thường, vô ngã và khổ đau của kiếp nhân sinh. Thế nên, năm 1944, mới 22 tuổi đời, ngài lại dứt áo ra đi lần thứ hai. Bỏ lại sau lưng tất cả mọi ưu phiền của đời sống thế tục để kiên quyết dấn thân vào con đường giải thoát sinh tử khổ đau. Từ đây bước chân của Người vân du khắp nơi như hạc nội với mây ngàn. Nhận thấy vùng Thất Sơn có nhiều hang động cộng với núi rừng u tịch có thể thích hợp cho việc tham thiền nhập định, cho nên ngài đã dừng chân tại đây một thời gian. Không có nơi nào níu kéo được Ngài lâu, một thời gian sau khi thấy ở nơi núi rừng đã đủ, ngài lại rời Thất Sơn đến địa phận Hà Tiên. Ngài có dự định đi ra nước ngoài để tìm đạo cũng như hành đạo. Nhưng khi đến nơi tàu đã đi rồi. Trễ tàu ngài bèn ngồi lại trên gềnh đá tại bãi biển mũi Nai, Hà Tiên để tham thiền nhập định. Ngài ngồi như thế suốt 7 ngày trông ra đại dương. Rồi vào một buổi chiều trông ra biển khơi bao la, trời nước mênh mông, thấy những con thuyền lúc ẩn lúc hiện, những đám bọt biển tụ tán vô thường, ngài đã giác ngộ lý đạo. Từ đây mọi sự khổ vui, còn mất, sống chết không còn bận lòng ngài nữa. Tổ sư bỏ ý định ra nước ngoài và trở lại vùng Thất Sơn nhân đó gặp một vị hiền sĩ. Vị hiền sĩ thấy ngài trang nghiêm, đức hạnh, có cốt cách của một vị chân tu đắc đạo bèn thỉnh ngài về chỗ ở của mình, chùa Linh Bửu, làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho.

3. Cuối năm 1946, tại chùa Linh Bửu, để thuận tiện cơ duyên hành đạo sau nầy và làm gương cho chúng sanh, tổ sư phát nguyện trước Tam bảo xin thọ Cụ túc, Tỳ kheo 250 giới và lấy pháp danh là Minh Đăng Quang. Ngài nguyện sống đời sống thanh bần đơn giản, ngày ăn một bữa, đêm ngủ nơi vườn rừng thanh vắng hoặc gốc cây. Có khi ngài vào rừng thiền định vài ngày mới ra xóm làng khất thực xin ăn. Mặc dù đã giác ngộ chân lý, nhưng trong khoảng thời gian từ 1945- 1946, ngài vẫn đi khắp nơi để tham học vừa thể nghiệm một lối hành đạo mới của mình. Có lẽ tổ sư đã nắm vững đường lối và tinh hoa của Phật giáo Nam truyền, nhưng đường lối cũng như tinh hoa của Phật giáo Bắc truyền ngài cần phải nghiên cứu học hỏi thêm. Thế nên có khi ngài đi thăm viếng các nhà đạo học, học giả Phật giáo nổi tiếng đương thời như hoà thượng Thiên Thai ở Bà Rịa, đại sư Huệ Nhựt phái Thiền Lâm.v.v.. Đến năm 1947, tổ sư bắt đầu công cuộc hoằng pháp mở đạo tại vùng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho.

CHƯƠNG IV

THỜI KỲ HOẰNG PHÁP VÀ MỞ ĐẠO CỦA TỔ SƯ

1. Địa bàn hoằng pháp đầu tiên của tổ sư Minh Đăng Quang xuất phát từ Phú Mỹ, Mỹ Tho. Ban đầu người dân làng Phú Mỹ thấy xuất hiện một nhà sư người Việt nhưng hình thức y áo giống như một vị sãi Miên. Nhà sư đầu trần chân không, thân quấn mảnh vải vàng, ôm một cái gáo dừa đi khất thực xin ăn từ làng nọ qua làng kia. Đặc biệt nếp sống của nhà sư rất thanh bần đơn giản. Hàng ngày, tổ sư vào xóm làng khất thực để gieo duyên, chỉ xin thức ăn chay, không nhận đồ ăn có huyết nhục. Mỗi ngày, nhà sư chỉ ăn một bữa ngọ trưa, đêm nghỉ nơi đình chùa, vườn rừng, hoặc nhà cư sĩ có đạo tâm, không gia đình, không tiền không gạo. Người dân lúc đầu hiếu kỳ, sau cảm mến gần gũi, cúng dường vật thực, hỏi han và nghe pháp. Thời gian ở Phú Mỹ, ngài thường ngụ tại gia đình ông Võ Văn Nhu, một gia đình rất có đạo tâm. Chính nơi đây, tổ sư thường thuyết pháp giảng đạo cho bà con. Tiếng lành đồn xa, người đến nghe pháp học đạo ngày một đông. Từ đó ngài tuyên dương giáo lý Khât sĩ y bát chơn truyền ra khắp vùng Mỹ Tho. Những người đến nghe pháp học đạo nhưng không muốn xuất gia thì ngài độ cho họ làm cư sĩ. Rồi lần lược ngài nhận người xuất gia tu học theo đường lối Khất sĩ. Đầu tiên, tổ sư thu nhận người nam rồi kế đến người nữ. Người xuất gia đầu tiên đệ tử của ngài, bên tăng là đức thầy Từ Huệ và Huệ Ngạn; còn bên ni là ni sư Huỳnh Liên và Bạch Liên. Cứ như thế trong khoảng 2 năm 1946-1948, tại vùng Mỹ Tho, Long An, tổ sư Minh Đăng Quang đã thành lập một đoàn du tăng khất sĩ có nam có nữ do ngài dẫn đầu. Trong thời gian hoằng pháp tại Mỹ Tho, một ngôi tịnh xá do tổ sư chứng minh đã được dựng lên. Đó là tịnh xá Mộc Chơn, một dấu tích kỷ niệm bước chân hành đạo đầu tiên của ngài.

2. Sau hai năm hoằng pháp tại vùng Mỹ Tho, tổ sư đã hình thành nên một phong trào học Phật theo đường lối mới của ngài. Đặc biệt ngài đã thành lập một đoàn du tăng khất sĩ khoảng 20 vị tăng ni. Năm 1948, tổ sư rời Mỹ Tho, dẫn đoàn du tăng đến vùng Sài Gòn, Chợ Lớn. Hình ảnh một đoàn du tăng với hình thức y bát và hành trì giới luật như Phật Tăng xưa đi khất thực trên đường phố Sài Gòn hoa lệ đã làm chấn động dư luận thời bấy giờ. Không chỉ riêng giới Phật giáo mà các giới công nhân, trí thức hay bình dân đều cảm thấy có một cái gì khác lạ và thanh thoát nơi các nhà sư mới nầy. Đoàn du tăng vừa làm gương hạnh cho người hướng thiện vừa thuyết pháp xiển dương chân lý Khất sĩ Y Bát Chơn Truyền chẳng bao lâu đã tạo nên tiếng vang. Nhiều người mộ đạo đến nghe pháp và tìm hiểu giáo lý khất sĩ. Tại Phú Lâm, thiện tín dâng cái đình Cây Gõ cho đoàn du tăng có chỗ ngụ và thuyết pháp cho bá tánh. Phật tử vùng trung tâm Bàn Cờ, Chợ Lớn cúng một ngôi chùa cũ cho tổ sư và đoàn du tăng, nay là chùa Kỳ Viên, trụ sở của Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam. Tổ sư tiếp nhận ngôi chùa và cho cất nhiều am cốc cho chư tăng ni tạm trú tu học. Một thời gian sau, các Phật tử thấy chư tăng ít, muốn rước các sư Khơ me vào chùa ở chung để cùng hành trì hạnh y bát khất thực. Tổ sư đồng ý nhưng giao điều kiện rằng : " Mấy sãi Miên qua nhập chung với chúng tôi phải hoàn toàn ăn chay và đi khất thực". Nhưng một thời gian các sư Miên phá điều giao ước, trở lại ăn mặn và không đi khất thực. Tổ sư thấy không ổn bèn giao chùa cho các sãi Miên và hội cư sĩ rồi rời thành phố vân du về miền Hậu Giang.

 3. Cuối năm 1948, Đoàn du tăng rời thành phố hoa lệ, đi về miền sông nước Hậu Giang để mở đạo. Từ đây một trang sử mới đã mở ra cho đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam. Tổ sư dẫn đoàn du tăng đi hành đạo khắp các tỉnh thành Nam Bộ. Từ xứ Bạc Liêu lắm muối muỗi nhiều cho đến vùng Hà Tiên thơ mộng; từ miền cây trái xanh tươi trù phú của Cần Thơ cho đến Sài Gòn hoa lệ, nơi nào cũng đều in dấu của tổ sư và đoàn du tăng khất sĩ. Bóng dáng y vàng của người khất sĩ đi đến đâu thì phong trào học Phật tu hành được thạnh hành đến đó. Đoàn du tăng đi đến nơi nào cũng thuyết pháp dạy người tu tập, sống theo tinh thần chơn lý khất sĩ là xin, học,cho đắp đổi cho nhau nhằm tạo nên một thế giới Cực lạc ngay nơi trần thế. Người mộ đạo ngày càng đông, rồi đạo tràng tịnh xá mọc lên khắp nơi. Chư tăng ni xuất gia theo tổ ngày một tăng dần. Tổ cắt một số vị ở lại coi sóc các tịnh xá mới tạo lập ở các tỉnh, số còn lại thì theo đoàn du tăng đi hành đạo khắp chốn. Tổ sư đi hành đạo quanh năm, chỉ khi đến Rằm tháng 7 đoàn du tăng mới trở về một nơi làm lễ sám hối, tự tứ và kiểm điểm giới hạnh lẫn nhau. Buổi tự tứ đầu tiên tại chùa Kỳ Viên, Sài Gòn năm 1948. Từ năm 1949 đến năm 1951 tại tịnh xá Ngọc Viên, Vĩnh Long. Lễ tự tứ 1952 tại Sa Đéc và 1953 tại Ngọc Viên, Vĩnh Long. Tóm lại, với phương châm: "Nối Tryuền Thích Ca Chánh Pháp, Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam" ,trong vòng 8 năm, tổ sư Minh Đăng Quang đã hình thành nên một hệ phái Phật giáo Khất sĩ và có tầm ảnh hưởng khắp Nam Bộ.
CHƯƠNG V

CÔNG VIỆC XIỂN DƯƠNG CHÂN LÝ CỦA TỔ SƯ

1. Những nguyên nhân khiến Phật giáo Khất sĩ phát triển nhanh

Chỉ trong vòng 8 năm mà Phật giáo Khất sĩ lan nhanh khắp các tỉnh thành Nam Bộ. Sự phát triển mau lẹ như vậy có các nguyên nhân sau. Những nguyên nhân nầy cũng chính là thế mạnh của Phật giáo Khất sĩ. Thứ nhất hình ảnh nhà sư với nếp sống thanh bần đơn giản đã thu phục được tình cảm của người dân. Nhà sư mặc y vá, đầu trần, chân không, đi xin, ở nơi vườn rừng và không tích chứa của cải tiền bạc đã khiến cho mọi người cảm phục. Nhà sư đã làm được những điều mà những người bình thường không làm được, tức là xa lìa mọi bon chen danh lợi, an phận với nếp sống thanh bần mà sáng ngời đạo đức và tâm linh. Thứ hai là đoàn du tăng luôn di chuyển địa bàn và đến nơi nào cũng thuyết pháp giảng đạo. Thập niên 40-50, Phật giáo trong thời kỳ chấn hưng, việc thuyết pháp giảng kinh tuy có nhưng rất ít. Việc giảng kinh thuyết pháp chỉ tổ chức ở các trụ sở của các hội Phật học hoặc các chùa lớn nơi thị tứ. Người dân bình thường ít có dịp đến đó tham dự. Sự kiện đoàn du tăng Khất sĩ đến nơi nào cũng tổ chức thuyết pháp giảng đạo khiến cho mọi người đều có cơ hội tiếp thu giáo lý. Nhờ đó nhiều người đi theo Phật giáo Khất sĩ và mến mộ các sư nhiều hơn. Nguyên nhân thứ ba phát xuất từ nhân cách của tổ sư Minh Đăng Quang. Mặc dù còn rất trẻ nhưng ngài đã hội đủ những đức tính của một bậc đạo sư. Về đức hạnh, ngài là người có oai nghi trang nghiêm, chửng chạc, có phong cách của một vị chân tu đạo hạnh. Hình thức bên ngoài của tổ thôi cũng khiến người cảm mến và kính phục. Về mặt tu chứng, ngài là người đã chứng đạo, ngộ đạo. Đây là một nhân tố quan trọng của một vị đạo sư trong việc mở đạo thành công. Về mặt trí tuệ, ngài là bậc đa văn, thông thái, có khả năng tổ chức và biện tài rất giỏi. Ngài đã nắm vững tinh hoa giáo lý của hai truyền thống Phật giáo và dung hợp lại để trở thành một hệ giáo lý đặc thù của mình. Có thể ngài thông thạo một số ngôn ngữ như Pháp, Hoa, Khơ me và chữ Quốc ngữ. Tổ sư đủ khả năng thuyết pháp, biện tài cũng như trả lời các câu hỏi chất vấn của mọi người học đạo. Tóm lại, Tổ sư Minh Đăng Quang hội đủ các yếu tố của một vị đạo sư toàn năng. Trên đây là những nguyên nhân chính khiến Phật giáo Khất sĩ phát triển mau chóng trên toàn miền Nam Bộ.

2. Phương tiện hoằng pháp của tổ sư

Tổ sư Minh Đăng Quang rất chú trọng việc hoằng pháp. Ngài dẫn đoàn du tăng đi đến nơi nào cũng tổ chức giảng đạo thuyết pháp. Có khi thuyết ở đình chùa, có lúc thuyết ở trường học, sân vận động, nhà lồng chợ , vườn cây, nhà cư sĩ v.v.. Ngài ra sức xiển dương đạo lý Khất sĩ. Khất sĩ là chơn lý đúng đắn của chư Phật và chúng sanh. Ai ai cũng đều là khất sĩ hết. Muốn tiến hoá đi lên thì phải hiểu tinh thần khất sĩ. Khất là xin, sĩ là học. Xin vật chất để nuôi thân, xin tinh thần để nuôi trí. Con người hay muôn loài vạn vật muốn tồn tại đều phải xin lẫn nhau, đó là chơn lý của vũ trụ. Còn học là học tất cả chúng sanh, vạn vật và các pháp. Muốn học rộng phải đi nhiều nơi và phải biết học tập chơn lý để trở nên hiền thiện, đạo đức và trở thành bậc vô thượng sĩ ngày sau. Đối với dân chúng, ngài khuyên hãy sống đời đạo đức để xây dựng một xứ an lạc, hạnh phúc ngay nơi trần thế bằng cách : " Mỗi người phải biết chữ, mỗi người phải giữ giới, mỗi người phải tránh ác, mỗi người phải học đạo". Đối với tăng đồ, ngài kêu gọi trở về đời sống giới luật và nên chú trọng pháp hành như Phật tăng xưa, chớ không nên chú trọng về mặt hình thức tông giáo. Đặc biệt ngài kêu gọi người xuất gia nên tập sống chung tu học. Theo ngài: " Cái sống là cái sống chung, cái biết là cái học chung, cái linh là cái tu chung". Về phương tiện hành đạo, tổ sư chủ trương giáo lý Việt ngữ lưu thông. Trong toàn bộ bài giảng hay bài viết của mình, ngài dùng toàn Việt ngữ với phong cách bình dân và dễ hiểu. Đây chính là yếu tố quan trọng khiến giáo lý Khất sĩ đi vào lòng dân chúng một cách dễ dàng. Mặt khác, tổ sư có sáng kiến sử dụng các phương tiện hỗ trợ công việc hoằng pháp rất hiện đại so với thời bấy giờ. Như ngài hay dùng máy phóng thanh trong những buổi thuyết pháp. Ngài sử dụng phương pháp tiếp thị giáo pháp rất độc đáo như dùng máy quay đĩa phát ra những bài kệ pháp đã ghi âm cho dân chúng nghe. Ngài cho sắm xe hơi để làm phương tiện hành đạo. Ngài cho treo những băng rôn, biểu ngữ hai bên hông xe để tiếp thị giáo lý. Ngài chứng minh cho máy in Pháp ấn hoạt động vào năm 1953 để in những bài giảng do chính ngài ghi lại.v.v.. Tóm lại, tổ sư rất năng động trong việc hoằng pháp, cộng với sự hỗ trợ của các phương tiện hiện đại và với sáng kiến độc đáo của ngài, cho nên giáo lý Khất sĩ đã mau chóng được nhiều người biết đến. Nhờ thế người theo đạo ngày một tăng và thế lực Phật giáo Khất sĩ cũng nhanh chóng lan rộng khắp nơi.

3. Những thuận lợi và khó khăn trong việc hoằng pháp của tổ sư

Trước nhất, hình bóng người tu Khất sĩ và đoàn du tăng đã gây nên thiện cảm đối với người dân. Người Khất sĩ nghèo khó xin ăn tu học, hiền thiện, trang nghiêm đã thu phục nhân tâm của đại đa số quần chúng, đặc biệt là người dân nghèo. Phật giáo Khất sĩ có đường lối hành đạo riêng và mới mẻ nên có sức thu hút đối với quần chúng lúc bấy giờ. Tổ sư Minh Đăng Quang lãnh đạo đoàn du tăng là bậc chân tu đắc đạo, đầy đủ giới hạnh trang nghiêm và là một vị rất có tài năng trong việc hoằng pháp đô sanh. Kế đó, tuy chủ trương người tu khất sĩ phải sống thanh bần đơn giản nhưng đối với công cuộc hoằng pháp độ sanh thì tổ sư lại sử dụng các phương tiện hỗ trợ hoằng pháp rất hiện đại so với thời bấy giờ. Đó là các phương tiện như xe hơi, máy phóng thanh, đĩa hát, máy in Pháp ấn.v.v.Chính các phương tiện trên đã hỗ trợ rất nhiều cho việc hoằng pháp của tổ sư. Thứ nữa, đoàn du tăng được phép lưu hành, được phép hành đạo khắp các tỉnh thành Nam Bộ mà không có sự ngăn cấm của chính quyền. Đoàn có một cuốn sổ hành đạo, đi đến đâu đoàn trình sổ cho chính quyền địa phương xác nhận về thời gian đến, đi và nội dung hoạt động. Chính việc tự do hành đạo đã giúp đoàn du tăng đi mở đạo khắp các tỉnh miền Nam.

Bên cạnh những thuận lợi, đoàn du tăng cũng gặp một vài khó khăn sau. Thứ nhất, trong suốt thời gian tổ sư mở đạo và hành đạo thì cuộc chiến tranh Việt- Pháp nổ ra rất ác liệt. Đoàn du tăng chỉ có thể hành đạo ở các vùng đô thị. Vì nơi đây còn bảo đảm về an ninh. Do hoàn cảnh chiến tranh, đoàn du tăng không thể đi vào các vùng sâu, vùng xa để hoằng pháp. Cho nên các tịnh xá của Phật giáo Khất sĩ phần nhiều phát triển ở các thị xã hay thị trấn của các tỉnh. Thứ hai, Phật giáo Khất sĩ phát triển rất nhanh nhưng đại đa số chỉ thu hút tầng lớp bình dân mà chưa thu hút được tầng lớp trí thức. Các vị xuất gia theo tổ phần nhiều xuất thân từ lớp bình dân hoặc trung lưu. Các ngài chỉ chú trọng về giới hạnh và pháp hành mà ít chú tâm vào pháp học. Thế nên, sau khi tổ vắng bóng hiếm có vị nào tài đức như tổ để xiển dương giáo lý Khất sĩ như thời tổ. Cuối cùng là sự chống đối ngấm ngầm hoặc công khai của một số tôn giáo địa phương khi thấy Phật giáo Khất sĩ phát triển quá nhanh. Điều nầy khiến cho tổ sư Minh Đăng Quang hành đạo đến đầu năm 1954 rồi vắng bóng cho đến nay.

CHƯƠNG VI

TỔ SƯ VẮNG BÓNG VÀ SỰ NGHIỆP TRUYỀN THỪA

1. Những sắp đặt và dự báo

Đến năm 1954, đạo Phật Khất sĩ do tổ sư khai mở đã được 8 năm. Lúc nầy Phật giáo Khất sĩ đã phát triển có quy thế và vững mạnh. Tổ sư đã thâu nhận nhiều đệ tử tăng ni xuất gia và rất nhiều cư sĩ tại gia. Đạo tràng tịnh xá đã có mặt khắp các tỉnh miền Nam. Nhưng có lẽ biết cơ duyên sắp mãn cho nên vào những ngày đầu năm 1954, tổ sư đã sắp xếp một số việc để ổn định giáo hội Phật giáo Khất sĩ sau nầy. Như tổ chỉ định trưởng lão Giác Tánh làm chứng minh, trưởng lão Giác Chánh làm lãnh đạo đoàn du tăng, trưởng lão Giác Như làm tri sự coi sóc các tịnh xá, trưởng lão Giác Nhơn làm pháp sư, trưởng lão Giác Thần làm luật sư. Ngài đã soạn xong bộ Chơn Lý gồm 69 quyển để làm giềng mối tu học cho tăng ni. Sự dự báo nầy có lẽ được biểu hiện cụ thể qua một bứt thư gởi cho chư tăng ni, được xem như di chúc bằng văn bản của ngài.

" Tôi vì gốc bệnh lâu năm, nên chắc không thiệt mạnh, mặc dầu nay cũng tạm bớt rồi. Sự hành đạo hình như cũng đã quá rán sức lắm, và nền đạo cũng đã tròn xong, vậy nên tôi quyết định yên nghỉ nơi xa vắng. Kể từ nay trước khi đi, tôi rán viết đoạn chơn lý ít nhiều chỉ thêm về khoảng thiếu của người trong xứ. Đó tức là dấu xương tôi để lại, vì sau tôi sẽ đi vậy...".

2. Thọ nạn và vắng bóng

Những ngày cuối của tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1954), tổ sư ngụ ở tịnh xá Ngọc Quang, Sa Đéc dạy đạo cho chư tăng. Chiều ngày 30 tháng Giêng năm 1954, ngài đi đi lại lại dưới tán cây bả đậu với vẻ mặt suy tư. Đến tối hôm ấy, ngài bảo chư tăng tập trung lại và dặn dò, khuyến khích về việc tu học cũng như việc mở mang mối đạo ở trong xứ. Dặn bảo xong, ngài từ giã chư tăng để đi tịnh tu một thời gian. Chư tăng xin đi theo, ngài không cho và bảo nên ở lại tu học. Sáng hôm sau, nhằm ngày Mùng một tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1954), tổ sư rời tịnh xá Ngọc Quang đi qua Vĩnh Long với một vị sư già và một tập sự. Sau khi ghé tịnh xá Ngọc Viên ở Vĩnh Long rồi ngài đi tiếp qua Cần Thơ. Khi đến địa phận Cái Vồn, Bình Minh, ngài bị tướng Trần Văn Soái còn gọi là Năm Lữa thuộc tín đồ Phật giáo Hoà Hảo mời vào căn cứ Cái Vồn rồi mất tích luôn cho đến ngày nay. Năm ấy tổ sư Minh Đăng Quang tròn 32 tuổi.

3. Sự nghiệp truyền thừa của tổ sư

Chỉ một mảnh quỳnh y và một bình bát đất bên mình, nhưng với nghị lực bền bỉ, một tấm lòng tha thiết hoá độ chúng sanh, tổ sư Minh Đăng Quang đã để lại cho đời một cơ ngơi đạo pháp thật to tát. Từ năm 1946 đến năm 1954, tổ sư đã gầy dựng và củng cố một hệ phái Phật giáo mới, Phật giáo Khất sĩ Việt Nam.Chỉ trong vòng 8 năm, Phật giáo Khất sĩ đã lan rộng khắp miền Nam. Ngoài đoàn du tăng đi hành đạo khắp nơi, tỉnh nào cũng có ít nhất một đạo tràng tịnh xá cho tăng ni tu học và tiếp đô bá tánh. Đặc biệt đoàn du tăng đi giáo hoá khắp nơi đã gieo mầm đạo đức cho biết bao người, đã khiến cho hàng vạn người trở về con đường thiện lành trong sạch. Sự nghiệp truyền đạo của tổ sư có thể liệt kê một vài con số sau. Ngài đã trực tiếp xây dựng và chứng minh 30 ngôi tịnh xá ở khắp miền Nam. Tiếp độ gần một trăm vị tăng ni xuất gia tu học theo đường lối Khất sĩ Y Bát Chơn Truyền của ngài. Cụ thể là ngài tiếp độ cho 31 vị tăng, vị đầu tiên là đức thầy Từ Huệ. Ngài nhận 53 vị ni, dẫn đầu là ni trưởng Huỳnh Liên. Về mặt trước tác, ngài để lại hai bộ sách quý báu làm kim chỉ nam cho tăng ni tu học. Đó là bộ Chơn Lý gồm 69 quyển do chính tay ngài soạn và bộ Bồ Tát Giáo. Trên đây là một vài con số khiêm tốn về sự nghiệp hoằng đạo của tổ sư, nhưng cái tinh thần và công lao của ngài đối với tăng ni cũng như tín đồ Phật giáo Khất sĩ thì thật là vô giá. Mặc dầu ngài đã ra đi nhưng chí nguyện của ngài vẫn được bao thế hệ tăng ni kế thừa và tiếp nối. Chúng ta, những người đi theo bước chân của ngài thì phải ra sức bảo tồn và phát huy tinh thần đạo Phật Khất sĩ, làm cho hệ phái Phật giáo Khất sĩ ngày một lớn mạnh và hưng thịnh. Đó cũng là cách đền đáp công ơn của tổ thầy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét