Thứ Sáu, 9 tháng 3, 2012

Tiểu Sử của Hòa Thượng Thích Giác Thường

15/02/2011 

HÒA THƯỢNG THÍCH GIÁC THƯỜNG

-  Giáo phẩm Hệ phái Khất sĩ – Thành viên GHPGVN
- Ủy viên Ban Nghi lễ Trung ương GHPGVN
- Ủy viên Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP.HCM
- Trị sự Giáo đoàn II, trụ trì tịnh xá Ngọc Đăng, P.12, Q.Bình Thạnh, TP.HCM

____ 000 ___

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Kính bạch chư tôn đức lãnh đạo các cấp Giáo hội, chư tôn đức giáo phẩm Hệ phái,
Kính bạch chư tôn đức Tăng, Ni,
Kính thưa quý quan khách cùng chư Phật tử,
Thay lời Ban Tổ chức Tang lễ và môn đồ pháp quyến, chúng tôi xin phép thành kính cung tuyên Sơ lược tiểu sử cố Hòa thượng Thích Giác Thường.
I. Thân thế:
Hòa thượng Thích Giác Thường, thế danh Phạm Đỗ Văn Quân, sinh ngày 08 tháng 4 năm 1940 (Canh Thìn), tại thôn 3, Cẩm Thanh, Hội An, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ là cụ ông Phạm Văn Nhụ, thân mẫu là cụ bà  Đỗ  Thị Nắng. Hòa thượng là người con thứ 6 trong gia đình, gồm 5 trai, 2 gái.
II. Thời kỳ xuất gia tu học:
Từ những năm trước và sau 1960, đoàn Du tăng Khất sĩ từ miền Nam ra miền Trung hành đạo đến tỉnh Quảng Nam, hình ảnh khất thực hóa duyên và tham thiền của đoàn Du tăng Khất sĩ đã đánh thức chí nguyện xuất thế của Người trong nhiều đời, nay hội đủ duyên lành phát khởi. Từ đó, Người học hỏi giáo pháp, thấm nhuần đạo lý, ngộ được sự vô thường của thế gian.
Ngày 19 tháng 5 năm 1964, Ngài xin xuất gia theo đoàn Du tăng Khất sĩ tại tịnh xá Ngọc Giáng, thành phố Đà Nẵng, được Đức Trưởng lão Tăng chủ Thích Giác Tánh thâu nhận thế phát và ban Pháp danh Giác Thường.
Hơn một năm tập tu, nhân lễ Vu lan – Tự tứ năm 1965 tại tịnh xá Ngọc Trang, thành phố Nha Trang, Ngài được Giáo hội truyền cho mười giới Sa di và Tứ y pháp. Sau khi thọ lãnh giới pháp, Ngài luôn tinh tấn nỗ lực tu tập và nghiêm trì giới luật.
Khi túc duyên hội đủ, theo luật Phật chế và quy định của Tăng già, Hòa thượng được Giáo hội truyền trao Cụ túc giới vào ngày rằm tháng 07 (ÂL) năm 1969, tại tịnh xá Ngọc Hội, Bồng Sơn, Bình Định.
III. Thời kỳ hành đạo :
Theo truyền thống của Tăng đoàn lúc bấy giờ, chư Tăng được bổ xứ luân phiên trụ các tịnh xá, với trách nhiệm trụ trì, xây dựng trùng tu đạo tràng, để có chỗ cho hàng xuất gia và cư sĩ tại gia tu học. Từ năm 1965 đến năm 1975, Ngài đã trụ xứ qua các đạo tràng tịnh xá như: tịnh xá Ngọc Hội, thị trấn Bồng Sơn, tỉnh Bình Định; tịnh xá Ngọc Trang, thành phố Nha Trang; tịnh xá Ngọc Xuân, tỉnh Bình Thuận; tịnh xá Ngọc Thuận, tỉnh Ninh Thuận; tịnh xá Ngọc Hương, thành phố Huế; tịnh xá Ngọc Hà, thị xã Đông Hà, Quảng Trị; tịnh xá Ngọc Trị, tỉnh Quảng Trị. Đến trú xứ nào, Ngài cũng miên mật thực hành hạnh khất thực hóa duyên, tham thiền, xây dựng đạo tràng, hướng dẫn Phật tử tu học theo giáo pháp Tổ Thầy để lại.
Năm 1975 đến năm 1990, Ngài được Giáo hội bổ xứ về trụ tại tịnh xá Trúc Lâm, Xã Tân Hà, tỉnh Bình Thuận.
Năm 1990, Ngài được Giáo hội phân bổ về trụ xứ tịnh xá Ngọc Đăng, phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2008,  Ngài được Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP.Hồ Chí Minh chính thức bổ nhiệm trụ trì tịnh xá Ngọc Đăng, thay cho Hòa thượng Thích Giác Diệu đã viên tịch ngày 16 tháng 11 năm Bính Tuất (2007).
Trong thời gian tiếp Tăng độ chúng, Ngài đã tiếp độ nhiều đệ tử xuất gia, như:  Thượng tọa Thích Giác Khánh, Đại đức Thích Giác Phước v.v… Bên cạnh đó, Ngài còn chứng minh, truyền ba pháp Quy y và năm giới cho rất nhiều cư sĩ tại gia.
Đời sống của Ngài vô cùng giản dị, suốt 46 năm tu học, Ngài luôn đem đến sự hỷ lạc cho tứ chúng đệ tử, nụ cười thân thương hoan hỷ sưởi ấm cho Phật tử các miền tịnh xá trong Giáo đoàn. Ngài hay nói với Phật tử rằng: “Sau này Sư có tịch thì ngủ một giấc rồi đi luôn, hay bệnh một chút rồi đi, chớ đừng nằm dây dưa làm khổ Tăng chúng và Phật tử”.
Ngài luôn luôn khuyến khích, dạy dỗ chư Tăng chúng đệ tử, hãy cố gắng giữ gìn truyền thống của Hệ phái, từ sinh hoạt, ăn mặc, tụng niệm, hành thiền cho đến xây dựng, thờ phượng. Ngài thường nghiên cứu Kinh, Luật, Luận Bắc truyền và Nam truyền, nghiên cứu chuyên sâu kinh điển văn hệ Nikaya. Đặc biệt, Ngài đã gắn bó với  trường hạ tịnh xá Trung Tâm, quận Bình Thạnh, là trường hạ tập trung cho chư Tăng thuộc Hệ phái Khất sĩ được hình thành từ năm 1980 cho đến ngày về cõi Phật. Ngoài ra, Hòa thượng còn tham gia thuyết giảng tại các trường hạ trong Hệ phái như: Trường hạ tịnh xá Ngọc Phương, tịnh xá Ngọc Phú, tịnh xá Ngọc Tâm và nhiều đạo tràng khác… Các kinh Ngài đã từng thuyết giảng cho chư Tăng Ni và Phật tử trong nhiều mùa an cư của các trường hạ trong Hệ phái như “Tăng Chi Bộ kinh, Tương Ưng Bộ kinh, Tiểu Bộ kinh và giảng Chơn lý do Đức Tổ sư biên soạn.
Người thường dạy chư Tăng: “Quý Sư xuất gia là có duyên sâu dày với Phật pháp, muốn giải thoát theo Phật, Tổ thì đừng ham muốn danh vọng, theo hình thức bên ngoài, mà hãy quay trở về bên trong chính mình, quán xét, tỉnh giác không để niệm xấu phát khởi, thì sẽ đi đúng với giáo pháp giải thoát của chư Phật, Tổ”.
Từ năm 1981 đến năm 1991, đáp ứng nguyện vọng của Tăng đoàn, Ngài đảm nhiệm chức vụ Phó ban Trị sự của Giáo đoàn. Năm 1991, Ngài được Giáo đoàn cung thỉnh làm Trị sự Giáo đoàn II.
- Năm 2002, Ngài được mời tham gia Ban Nghi lễ Trung ương GHPGVN nhiệm kỳ V (2002-2007) và tiếp tục tham gia Ban Nghi lễ Trung ương nhiệm kỳ VI (2007-2012).
- Năm 2007, tại Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ VI, Ngài được Đại hội tấn phong lên hàng giáo phẩm Thượng tọa.
- Năm 2007, tại Đại hội Phật giáo TP.Hồ Chí Minh, Ngài được mời tham gia vào Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP.Hồ Chí Minh, nhiệm kỳ VII (2007-2012) với chức vụ Ủy viên.
- Đặc biệt, vào các tháng 9 và 11 năm 2005, cố Hòa thượng đã tham gia phái đoàn chư tôn đức giáo phẩm Hệ phái sang dự lễ khánh thành chùa Như Lai Thiền tự tại San Diego, Hoa Kỳ (do HT. Minh Hồi trụ trì) và Thiền viện Minh Quang tại Sydney – Úc Châu (do TT. Minh Hiếu trụ trì).
- Với công đức phụng sự Đạo pháp và đạo hạnh  trang nghiêm, Ngài được Hệ phái suy tôn vào hàng Giáo phẩm.
IV. Thời kỳ viên tịch:
Theo kiếp sống nhân sinh, tuổi đời ngày càng cao, thân tứ đại cũng dần hư hoại, nhưng chí nguyện độ sanh và hạnh nguyện xây dựng Tăng đoàn của Ngài không bao giờ thối chuyển. Vào ngày rằm tháng Giêng năm Canh Dần (2010), Ngài giảng Pháp cho Phật tử và dạy: “Thân tứ đại giả hợp, khi hội đủ điều kiện thì nó đến, khi hết duyên thì sẽ đi, không có gì phải lo lắng”, như chư Tổ đã dạy: “Khứ Lai Như Thị”. Đồng thời, Ngài khuyên dạy Phật tử rất kỹ về đời sống và sự tu học, phải biết “tri túc” thì cuộc sống mới được hạnh phúc và an lạc.
Sáng ngày 16 tháng Giêng năm Canh Dần, Ngài cùng với Đại đức  Giác Hiếu đi Nha Trang dự lễ tưởng niệm hàng năm của cố Trưởng lão Giác Định, nguyên Trưởng Giáo đoàn II. Nhưng có ngờ đâu, đó là một sự ra đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại. Khi đi đến địa phận Cà Ná, tỉnh Ninh Thuận thì Ngài cảm thấy mệt, Đại đức Giác Hiếu đưa Ngài vào Bệnh viện Phan Rang lúc 14 giờ cùng ngày. Khi vào bệnh viện, Ngài chỉ nói hơi mệt, rồi sức khỏe càng lúc càng xấu hơn. Tập thể y bác sĩ của bệnh viện dù đã tận tâm chăm sóc, nhưng đành bất lực khi túc duyên đã mãn. Ngài an nhiên thu thần viên tịch vào lúc 19 giờ 45 phút ngày 01 tháng 3 năm 2010, nhằm ngày 16 tháng Giêng năm Canh Dần. Trụ thế 71 nămHạ lạp 41 năm.
Với công đức phục vụ Đạo pháp và đạo hạnh tinh chuyên, Ngài đã được Ban Thường trực Hội đồng Trị sự, Ban Tăng sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam truy phong lên hàng giáo phẩm Hòa thượng vào ngày 04-3-2010.
Một cuộc đời đạo hạnh, tinh tấn hành trì Tứ y pháp, và chí nguyện lợi sanh của Ngài là một tấm gương sáng cho tứ chúng và môn đồ pháp quyến noi gương tu học. Thật là:
“Sống tinh tấn hoằng dương Chánh pháp.
Tịch an nhiên nhẹ gót liên đài”.
Ngài mất đi, Giáo hội mất đi một vị hiền tăng Pháp lữ, Giáo đoàn mất đi một cây đại thụ bóng mát che chở cho đoàn hậu học, môn đồ pháp quyến và cư sĩ Phật tử tại gia mất đi một vị thầy hiền khả kính, nhưng công đức và đạo hạnh của Hòa thượng luôn sống mãi trong tâm tư và ký ức của Tăng Ni cùng Phật tử.
Toàn thể đại chúng và môn đồ pháp quyến đồng kính nguyện Giác linh Hòa thượng cao đăng Phật quốc.
Kính lạy Giác linh Hòa thượng thùy từ chứng giám.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét