NÉT ĐẸP VỀ
HÌNH ẢNH TĂNG ĐOÀN KHẤT THỰC (Tác giả: Thiện Giải)
Hình ảnh Khất thực được xuất hiện ngay thời đức Phật
thành đạo, Ngài đã duy trì hạnh trì bình khất thực hóa duyên vào mỗi buổi sáng
sớm đi trên các nẻo đường làng, vào những xóm nông thôn của những con đường để
gieo duyên lành hóa độ đến những chúng sanh và những người hữu duyên. Từ đó
hình ảnh này đã được nhân rộng và nhiều
được lan tỏa khắp các nẻo đường vào mỗi buổi sáng, hình ảnh vị Khất sĩ đầu trần
chân không, thân tướng trang nghiêm đạo hạnh của bậc giác ngộ giải thoát đã
toát ra đức từ bi và trí tuệ làm mọi người cung kính và quy ngưỡng theo hộ trì
và tu tập. Và hình ảnh đó được phát triển mạnh và nhiều tại quốc độ Việt nam
vào những thập niên 40 khi đất nước chưa giải phóng, với sức hút mạnh của những
nhà sư Việt nam đã làm bao nhiêu người theo để tu học, những năm đầu hình thành
và phát triển đạo là xuất hiện nhiều ở các tỉnh Miền Tây Nam bộ, bóng y vàng của
những nhà Sư Khất sĩ của Đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã làm cho giáo pháp Khất sĩ
này được hình thành ngày một lớn mạnh cả về Tịnh xá lẫn số lượng Tăng Ni và tín
đồ Phật tử. Với hình ảnh này là hình thức hoằng pháp qua thân giáo và khẩu giáo
đem lại tự lợi và lợi tha rất được các nhà Sư thời đó duy trì và chú trọng, vì
hình thức này không làm cho các vị bị ràng buộc trong đời sống vật chất của tứ
vật dụng, mà chỉ dành cho việc gìn giữ đời sống tu tập và trang nghiêm đời sống
thân và tâm hướng đến đời sống tu học giác ngộ giải thoát, với hình thức hoằng pháp này tạo điều kiện cho mọi tầng
lớp con người đều có thể gieo duyên và có niềm tin tìm hiểu và theo tu học.
Tại sao có sức
hút mạnh như thế, không phải vì do hình ảnh đẹp từ những bậc giải thoát mà do từ
nơi sự tu hành, hành trì đúng chánh pháp của các vị mà đã toát lên hình ảnh từ
bi trí tuệ và giải thoát. Và hình ảnh này được Phật thể hiện thật sóng động đã
làm bao người niềm tin theo Phật tu tập và vì do các vị đã gìn giữ đời sống
chánh pháp, nghiêm trì giới luật phạm hạnh giải thoát.
1.
Tìm hiểu về Khất thực
Khất thực
là pháp mà ba đời chư Phật đã hành trì và duy trì đến ngày nay. Đây là pháp
chơn chánh tạo một hình ảnh đẹp và là hình thức hoằng pháp xuất hiện có mặt phổ
biến ngay thời Phật, thể hiện được ba ngôi báu hiện hữu trong mọi nơi đến những
chúng sanh hữu duyên. Về phần tìm hiểu Khất thực đã có nhiều bài viết trình bày
vấn đề này rất phong phú, nhưng bài viết này người viết chỉ làm rõ pháp Khất thực
qua chỗ khất thực, khất cái và ăn xin; giữa nhận và cho đúng pháp, khất thực
đúng pháp về lý và sự.
Người khất thực là phải đúng với tinh thần chánh pháp:
không xin tiền, không Khất thực vào những ngày rằm, những tháng an cư. Ngoài
một số tình huống ngoại lệ, tất cả những người xuất gia cần phải thực hành hạnh
khất thực như một pháp tu hiệu quả. Các trường hợp ngoại lệ không nên khất thực
bao gồm: a) suốt ba tháng an cư, b) Trong phạm vi các khu vực nguy hiểm đến
tính mạng như nơi có chiến tranh, thú dữ và giặc cướp. Việc hành khất trong thời
gian này không thuận lợi do vì sự trở ngại của mùa mưa. Quan trọng hơn, suốt thời
gian ba tháng an cư, tất cả các hành giả cần hội họp một trú xứ để thăng tiến tâm
linh sau chín tháng làm Phật sự và dấn thân. Đối với khu vực nguy hiểm, việc
hành khất trở nên vô nghĩa vì đối tượng hoá độ ở đây không có.[1]
Người khất sĩ là phải giác ngộ luôn sống trong giới
pháp thanh tịnh để tùy duyên hóa độ, lấp pháp Khất thực là pháp nuôi sống chơn
chánh của người tu hành và hành đạo. Khi đã thế phát,
ly gia cắt ái, nguyện xuất gia làm Tăng đồ, tức là được sanh vào dòng Phật, dù
trước kia là vua, quan nhà tướng, phù hộ, giàu sang quyền quí đến đâu, nay đã
xuất gia rồi, có tam y, quả bát là món cần thiết cho sự sống hằng ngày, để khỏi
bận tâm lo sắm vật thực. Hằng ngày mang bát xin ăn, đi từ nhà này sang nhà
khác, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo chủng tộc. Ðã là kẻ ăn xin, tự nhận
mình gởi sự sống nơi kẻ khác, tùy lòng bố thí, dở, ngon, nhiều, ít, mặn, lạt cũng
vui lòng nhận. Tánh tự cao, ngã mạn của mình đương nhiên bị mài dũa dưới cấp hạ
đẳng bần dân là một kẻ ăn xin. Nếu gặp phải kẻ chê bai, chỉ trích, nhà sư cũng
cam chịu với lòng nhẫn nại và thứ tha cho người kém sự hiểu biết. Nhờ đó mà
lòng sân nộ, tự ái, không có cơ phát khởi. Bình thản chịu đựng mọi lời dèm pha
nhẫn nại với nắng chan, đá cứng, nhà sư đem cái thân Như Lai tướng ra gợi ý cho
những người có lòng bác ái và nhân từ, họ suy nghĩ đến nền đạo đức của nhà Phật
mà phát tâm thương xót, thể hiện bằng cách bố thí, rồi tìm hiểu giáo lý Ðạo Phật
thêm.[2]
Như trong
lời Kinh Đức Phật đã dạy trong bài kinh Khất Thực Thanh Tịnh đức
Phật đã dạy về phương pháp khất thực thanh tịnh, theo truyền thống của chư Phật.
Khất thực thanh tịnh là cách thức thiết lập sự an trú vào “không tánh” trong từng
bước chân trên cuộc đời và đặc biệt là trong lúc tiếp nhận phẩm vật hiến tặng của
tha nhân. Trên đường khất thực, vị xuất gia phải xây dựng chánh niệm khi các
giác quan tiếp xúc với các đối tượng của chúng, không để cho thái độ tham đắm,
sân hận và si mê khởi lên trong tâm. Vị hành giả khất thực phải tận dụng cơ hội
để làm phát sanh tâm hoan hỷ với đời sống giản đơn nhưng thanh cao, ngày đêm tu
học các pháp thánh, từ bỏ một cách vĩnh viễn năm dục lạc có khả năng làm cho
hành giả đắm chìm trong khoái lạc giác quan. Với những bước chân thảnh thơi
trên những nơi thành thị, làng xã, tụ lạc, hay những cánh đồng, vị tỳ-kheo khất
thực tháo gỡ được năm trói buộc tâm, thấu rõ được bản chất chấp thủ năm nhóm
nhân thể (năm thủ uẩn), tu tập hoàn thiện 37 phẩm trợ đạo, đầy đủ chỉ và quán,
chứng đạt được giác ngộ ngay trong hiện tại.
Và theo Kinh Phật, trước khi lên đường khất
thực, trong lòng các vị sư nguyện rằng: “Nguyện cho các vị Khất giả thảy đều được
no đủ và nguyện cho các thí chủ thảy đều được phước báu vô lượng. Như nay tôi
được món ăn là dùng để điều trị cái thân độc hại này, để tu tập thiện pháp, lợi
ích cho thí chủ”. Mặt khác, khi đi khất thực, họ phải giữ tâm bình đẳng, nghĩa
là theo thứ tự nhà của dân, không chỉ đến nơi nhà giàu mà cũng không chỉ nơi
nhà nghèo. Đức Phật đã nhấn mạnh: “Chỉ
khi nào thân tâm được điều phục, thực hành chánh niệm và phòng hộ các căn thì mới
đi vào làng khất thực”.[3]
Qua lời dạy của Phật cho người hành trì
pháp Khất thực đúng chánh pháp để cho hành giả an trú trong chánh niệm và giúp
cho việc thọ nhận và người cho và cúng cũng có phần đúng phép tạo nhiều công đức
và phước báu. Còn việc Khất cái hay ăn xin là những người do vì nghèo khổ đời sống
thiếu thốn đã dã mạo đạo hạnh người tu mà làm những việc phi pháp. Họ biểu hiện
một thân tướng qua chiếc áo nhà tu, vì do tâm của họ còn nhiều ô uế của tham,
sân và si nên đã tạo hình ảnh xấu, thiếu đạo đức và trang nghiêm cho những nhà
tu hành chơn chánh đúng chánh pháp. Cũng vì do thời duyên mà các nhà tu hành là
phương tiện không hành trì Khất thực qua sự mà nói hành Khất thực qua lý là thọ
nhận vật cúng tại trú xứ nên ngày nay không còn duy trì qua sự của hành trì
pháp Khất thực đúng pháp nữa và do thay đổi hình thức hoằng hóa và hành pháp mà
hình ảnh Khất thực hóa duyên của các vị không được phổ biến cho nhiều người và
bá tánh cúng dường đúng pháp nữa. Chính từ đó đã làm cho nhiều người Khất thực
giả xuất hiện. Và để cho hình ảnh Khất thực này được duy trì và đúng pháp tạo
điều kiện cho người tu hành nhẹ nhàng rảnh rang trong tu hành và bá tánh cũng
thực hiện đúng pháp, thì Giáo hội và những nhà tu hành có trách nhiệm nên tạo
điều kiện để cho pháp Khất thực này được lan rộng và bền lâu.
2.
Hình ảnh khất thực sóng động từ ba đời chư Phật và đến
thời Tổ sư Minh Đăng Quang đã thu hút số lượng đông tín đồ và quần chúng
Hình ảnh
sóng động này đẹp không phải đẹp về nghệ thuật hình tướng về những tấm hình ghi
lại qua tranh ảnh mà đẹp về giá trị đạo đức thanh thoát và toát lên vẻ từ bi và
trí tuệ của bậc tu hành giải thoát. Từ những sáng sớm nhưng bước chân đã từng tự
đi vào những con làng, ngỏ hẽm của đường quê, nông thôn tỏa ra một hình ảnh
vàng rực của màu y giải thoát, đã làm cho nhiều người cảm động và dâng trào.
Hình ảnh Khất thực ngày thời Phật đã thể hiện một
hình ảnh đầy giá trị và cảm xúc qua Tôn giả Ca diếp: Ngài Ca-diếp, người anh
cả của giáo đoàn thời Phật, nổi tiếng là nhà khổ hạnh, khi được hỏi về giá trị
của khất thực đã xác quyết rằng sống hạnh khất thực sẽ giúp hành giả chuyển hoá
lòng tham đắm, thấy sự nguy hại trong các dục và không rơi vào tình huống phạm
tội, nhờ đó, hướng đến đời sống trí tuệ. Nhờ hành khất thực, người xuất gia sống
trong hạnh phúc của viễn ly. Ngài đã cảm tác bài thơ nói về bản
chất của khất thực như sau:
Mỗi buổi sáng ôm bình đi khất thực.
Độ tín thí không phân chia sang cực.
Được vật ngon hay được vật thô sơ.
Ăn để sống tu cuộc đời trong sạch!
Của bá tánh không nhận nhiều giữ cất,
Qua ngày mai hay lưu lại về sau.
Từng miếng cơm nhai tâm tịnh nguyện cầu,
Cho nhân loại trầm luân mau thoát khổ!
Độ tín thí không phân chia sang cực.
Được vật ngon hay được vật thô sơ.
Ăn để sống tu cuộc đời trong sạch!
Của bá tánh không nhận nhiều giữ cất,
Qua ngày mai hay lưu lại về sau.
Từng miếng cơm nhai tâm tịnh nguyện cầu,
Cho nhân loại trầm luân mau thoát khổ!
Đến đầu
những thập niêm 40 tại Miền Nam xứ Nam Việt đã xuất hiện những đoàn du Tăng Khất
sĩ của Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang đi trì bình khất thực hóa duyên vào những con
làng của Sài Gòn. Những nơi nào các vị đi qua đều thu hút một số lượng lớn Tín
đồ Phật tử theo xuất gia và tu học, có những vị còn hiến đất cúng làm chỗ cho
chư Tăng trú ngụ để tu học. Qua chất liệu của giới, định, tuệ đó là thân chứng,
chính do đời sống thanh bần, đơn giản, phạm hạnh của người tu giác ngộ giải
thoát, một hình ảnh trang nghiêm…đã làm thu hút một lượng quần chúng xã hội đến tu học rất đông, đem lại an lạc lợi lạc
cho quần chúng và xã hội ngày một đông và chất lượng. Các vị dùng thân giáo để
duy trì hình thức hoằng pháp và bằng tâm thanh tịnh và từ bi để trải rộng lòng
từ đến chúng sanh, cho chúng sanh có được an lạc giải thoát.
Đây là phần quan trọng tác giả chú trọng để nói lên
hình ảnh đẹp của Tăng đoàn, nhờ hình ảnh Tăng đoàn đã tái hiện là thời kỳ chánh
pháp, một Tam bảo thường trụ, thể hiện một đời sống các vị xuất gia giải thoát
luôn sống trong giới định tuệ. Sở dĩ đối với pháp Khất thực này lại được thu
hút một số lượng lớn ngay thời còn Phật tại thế là do đi đúng chánh pháp của ba
đời chư Phật. Một hình ảnh luôn tỏ vẻ của vị thoát trần Thượng sĩ, nên mỗi vị đệ
tử của Phật là những bậc cao thượng có đầy đủ giới, định và tuệ. Khi đức Phật
thành đạo Ngài đã độ những vị đệ tử đầu tiên và chỉ dạy căn dặn cho các đệ tử
hãy ra đi mỗi người một phương hướng, hai người không thể đi cùng một con đường,
các vị hãy ra đi vì hạnh phúc cho đời, vì an lạc cho đời vì hạnh phúc và an lạc
cho chư thiên và loài trời người.
Nhờ phương pháp khất thực xa lìa sự xa hoa, người xuất
gia có cơ hội thoát khỏi đời sống hưởng thụ các dục. Một vị tỳ-kheo trẻ
thời Phật khi được một thiên nhân dụ dỗ từ bỏ đời sống khất thực, để hưởng thụ
các khoái lạc giác quan, đã trả lời rằng: “Không hưởng thụ, ta sống khất thực/
Hành khất thực không uổng phí thời gian.” Thiết lập chánh niệm trong khất
thực là cách loại bỏ nỗi khổ niềm đau. Việc làm như vậy chẳng những không uổng
ích thời gian, mà còn làm cho thời gian tu tập trở nên có ý nghĩa hơn nhiều.[4]
Và là hình ảnh thực tế tạo một thân tướng của bậc mô
phạm để giáo dục con người sống theo đời sống có đạo đức và thánh thiện an lạc
giải thoát, làm bài học gương sáng cho người noi theo. Đã tạo duyên phước là mảnh
ruộng phước điền để cho người gieo tạo các công đức tu hành, hình ảnh tạo mảnh
ruộng qua tấm y có những thửa ruộng, có một lần Phật cùng các đệ tử đi Khất thực
hóa duyên đến những mảnh ruộng của các nông phu đang canh tác thì những người
làm nông lại thốt lên rằng: chúng tôi là những người làm lụn cực nhọc mới có
ăn, còn đệ tử của Cồ Đàm không có làm gì hết mà muốn hưởng thụ. Lúc này Phật là
khởi lên và giáo hóa cho những nông dân này qua bài kinh Cày Ruộng.
3.
Kết luận
Khi xã hội
càng phát triển, nhu cầu vật chất cao, vấn đề đạo đức và đời sống tu tập đúng
pháp là bị mai một theo thời gian, khi đạo đức tâm linh giảm xuống thì giới luật
hay điều lệ nội qui và pháp luật được đặt ra, nhờ đó những nhà tu hành ý thức đời
sống và sẵn sàng duy trì pháp Khất thực ngày một nghiêm túc đúng pháp và luật,
thì người dã mạo hay giả danh không còn cơ hội để làm ô nhiễm nữa. Bên cạnh những
người hộ trì và cúng dường nên hợp tác cùng Phật giáo để cúng dường đúng pháp
nhằm tránh người khất thực nhận tiền và giả mạo người khất thực.
Và ngày
nay để người xuất gia dù có đi hay không đi Khất thực mà vẫn đoạn trừ được ngũ
dục khi tiếp xúc và thọ nhận rất nhiều vật chất cuộc sống này, thì mỗi hành giả
phải luôn có chánh niệm và có đời sống đúng theo chánh pháp, ý thức việc tu tập
giải thoát để không dính mắt tham đắm, ái nhiễm hệ lụy vào các pháp hữu vi này
để ngày ngày đời sống Tăng đoàn Khất sĩ được thanh tịnh lớn mạnh hơn và Phật tử
tạo niềm kính tin đến ba ngôi Tam bảo đúng đắn hơn.